Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng NhậpShop

Share
 

 Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 -

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Yubj Tran
Học sinh nhà Đất
avatar
Tổng số bài gửi : 808
Join date : 21/04/2013
Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 - Empty
Bài gửiTiêu đề: Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 -   Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 - Icon_minitimeThu Apr 25, 2013 6:53 pm

Chương 14
Tác giả: Jules Verne

Trong khi đó Ayrton ngủ li bì, không sao đánh thức anh ta dậy được.
Sáng ngày hôm sau Ayrton mới tỉnh lại sau một cơn mê man, ai nấy đều vui mừng, sau một trăm lẻ bốn ngày chia li bây giờ mọi người được thấy anh ta còn sống và hầu như mạnh khoẻ. Liền đó Ayrton kể lại vắn tắt những gì đã xảy ra, tất nhiên là trừ những điều anh ta không biết.
Vào ngày 9 tháng mười một, đúng ngày mà Ayrton trở lại khu chăn nuôi, vào lúc trời bắt đầu tối, bọn cướp biển đã leo qua hàng rào và bắt anh. Sau khi trói Ayrton, bọn ác ôn bịt mồm anh và dẫn tới chân núi Granklin, đưa đến một trong những cái hang tối tăm mà chúng ẩn náu.
Chúng đã định giết anh ngay ngày hôm sau. Nhưng bỗng một trong số những tên cướp nhận ra anh, gọi anh bằng cái tên Ben Joyce mà anh đã mang hồi ở Australia.
Nhưng từ lúc chúng nhận ra Ayrton, anh phải đấu tranh chống lại những yêu cầu của các “chiến hữu” cũ. Chúng đã quyết định lôi kéo anh về với chúng và tính toán rằng anh sẽ giúp chúng chiếm đoạt Lâu đài Đá hoa cương. Chúng hi vọng rằng sau khi lọt được vào căn hầm kiên cố ấy chúng sẽ giết hết những người ngụ cư và chúng sẽ trở thành chủ nhân trên đảo.
Ayrton không chịu khuất phục. Một tên cướp trước đây, nay đã chuộc lỗi bằng sự sám hối và xứng đáng được tha thứ, thà chịu chết còn hơn phản bội những người bạn của mình.
Chúng đối xử với Ayrton ngày càng tồi tệ. Anh chờ đợi cái chết từng phút và cứ thế kéo dài cho đến giữa tháng hai, anh không hay biết gì về tin tức các bạn của mình.
Cuối cùng, Ayrton bất hạnh đã bị hành hạ suy yếu đến nỗi kiệt sức hoàn toàn từ hai ngày nay, không nhìn thấy, không nghe thấy và không thể kể được chuyện gì đã xảy ra trong thời gian này.
- Tôi không biết, thưa ngài Smith, sao lại thế này. Tôi đang bị trói nằm trong hang, thế mà bỗng nhiên lại thức dậy, thấy mình có mặt ở khu chăn nuôi.
- Thế việc bọn cướp nằm chết ở bờ suối gần khu chăn nuôi đã xảy ra như thế nào? – viên kỹ sư hỏi.
- Chúng chết à? – Ayrton kêu lên kinh ngạc và mặc dù yếu sức anh cũng cố nhỏm dậy trên giường.
Trời đã sáng rõ. Mọi người đi ra suối xem xét. Trên bờ suối, mấy xác chết nằm theo những tư thế tự nhiên như đang còn sống, chắc là bị tử thần bắt đi trong chớp nhoáng.
Ayrton bị xúc động, Cyrus Smith và tất cả mọi người im lặng nhìn anh. Theo dấu hiệu của viên kỹ sư, Nab, Pencroff xem xét các xác chết lạnh cóng.
Họ không phát hiện ra vết thương nào trên các xác chết. Chỉ sau khi xem xét thật kỹ Pencroff mới thấy trên mỗi thi thể có một vết màu đỏ y như là dấu vết bị đập thương; tên thì bị vết trên trán, tên thì trên ngực, tên trên lưng, tên trên vai. Những vết ấy do đâu mà ra thì không thể xác định được.
- Ai đã giết chúng vậy? – Pencroff hỏi.
- Người thực hiện công lí trên toàn đảo của chúng ta, – Cyrus Smith trả lời – người đã đưa anh về khu chăn nuôi đêm qua, Ayrton ạ! Người đã bao nhiêu lần can thiệp vào công việc của đảo Lincoln và cứu chúng ta.
- Chúng ta hãy đi tìm ông ấy ngay. – Pencroff kêu lên.
- Chúng ta sẽ đi tìm ông ta, – Cyrus Smith đồng tình – và cầu trời cho chúng con được chứng tỏ với ân nhân kiêu kì của chúng con rằng người không thể gọi chúng con là những kẻ vô ơn.*
* * Đã bao nhiêu lần trong ba năm ấy họ nhắc đến tổ quốc của mình. Những lần chuyện trò với nhau họ đều mơ ước cái ngày họ được nhìn thấy đất nước thân yêu.
Những ước mơ của họ chỉ có thể thực hiện được bằng hai con đường. Hoặc là một con tàu nào đó sẽ đến khu vực đảo Lincoln, hoặc là những người ngụ cư sẽ tự đóng một chiếc tàu đủ lớn để bơi về nơi đất liền gần nhất.
Tối ngày 15 tháng mười, cuộc chuyện trò thú vị kéo dài hơn mọi khi. Lúc ấy đã chín giờ. Bắt đầu nghe thấy những tiếng ngáp dài lộ liễu và Pencroff đã về giường mình. Bỗng trong phòng vang lên tiếng chuông điện báo.
Tất cả những người ngụ cư đều có mặt ở đây – Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Harbert, Ayrton và Pencroff – ở khu chăn nuôi không còn ai.
- Ta đợi đã! – Gédéon Spilett nói – Nếu đây là tín hiệu thì dù là tín hiệu ai phát đi, chuông cũng sẽ reo lại.
- Thế thì theo ông, ai có thể phát tín hiệu? – Nab kêu lên.
- Chú quên rồi sao? – Pencroff trả lời – Đó là người mà…
Lời nói của anh ta bị tiếng chuông mới cắt ngang; chiếc búa nhỏ gõ liên hồi vào nắp chuông. Cyrus Smith bước đến máy điện báo, cắm điện và đánh ra khu chăn nuôi bức điện với nội dung:
- Ông cần gì?
Mấy giây sau, chiếc kim động đậy trên đĩa có ghi các chữ cái, và các cư dân Lâu đài Đá hoa cương nhận được câu trả lời:
“Các bạn ra khu chăn nuôi ngay!”
- Có thế chứ! – Cyrus Smith kêu lên.
Cyrus Smith và những người bạn đường của ông rời Lâu đài Đá hoa cương lúc chín giờ mười hai phút. Mười giờ mười lăm phút, dưới ánh chớp chói lòa họ đã nhìn thấy hàng rào khu chăn nuôi. Họ vừa vào cổng thì một tiếng sấm vang lên đinh tai nhức óc.
Người lạ mặt có lẽ đang ở trong nhà – bởi vì, tất nhiên ông ta phải đánh điện đi từ đó chứ. Song không cửa sổ nào thấy có ánh đèn.
Viên kỹ sư gõ cửa. Nhưng không có tiếng trả lời.
Cyrus Smith mở toang cửa ra, và mọi người bước vào căn phòng tối như bưng. Nab đánh lửa, trong nháy mắt họ thắp đèn và soi khắp mọi xó xỉnh. Trong nhà không có ai hết. Mọi đồ vật đều nguyên chỗ cũ như đã được xép đặt trước đây.
- Xem kìa! Có thư! – Harbert kêu lên, chỉ vào một tờ giấy trên bàn. Bức thư được viết bằng tiếng Anh:
“Các bạn hãy đi theo dọc đường dây điện mới”.
- Lên đường! – Cyrus Smith kêu lên; ông hiểu rằng bức điện khẩn đã được đánh đi không phải từ khu chăn nuôi, mà là từ nơi ở bí ẩn của người lạ mặt, và một đường dây điện bổ sung nào đấy dẫn đi từ đường dây cũ đã nối liền nơi đó với Lâu đài Đá hoa cương.
Nab mang theo cây đèn mới thắp và mọi người ra khỏi khu chăn nuôi. Ngoài sân, họ không thấy dấu hiệu nào của đường dây điện báo cả. Khi ra khỏi cổng Cyrus Smith đã chạy lại cột điện gần nhất. Dưới ánh chớp, ông nhìn thấy một đường dây điện mới được thòng từ ống sứ cách điện xuống đất.
- Đây rồi! – viên kỹ sư nói.
Sợi dây được rải lên mặt đất, bọc lớp cách điện như cáp ngầm nên bảo đảm dẫn điện tốt. Căn cứ vào hướng đi của dây thì nó xuyên qua rừng và các nhánh núi, đến phần phía tây của đảo.
- Hãy bán sát đường dây cáp! – Cyrus Smith nói.
Viên kỹ sư túm lấy sợi cáp và thấy nó đi xuống nước.
Viên kỹ sư cúi xuống, thấy một vật đen bập bềnh trên mặt nước liền kéo vào. Đó là chiếc thuyền được buộc vào một vách đá bên trong hang. Thuyền được đóng bằng những tấm tôn ghép chặt với nhau. Trên sàn thuyền, dưới các băng ghế ngồi có hai mái chèo.
- Lên thuyền! – Cyrus Smith nói.
Một giây sau, mọi người đã ngồi quanh thuyền. Nab và Ayrton ngồi chèo, Pencroff lái. Cyrus Smith đặt đèn lên sống mũi thuyền soi đường. Họ đang bơi dưới vòm hang thấp, bỗng thấy vòm hang cao lên và rộng ra; chung quanh tối như bưng, dưới ánh sáng yếu ớt của cây đèn không thể nào xác định được hang này lớn chừng nào. Con thuyền bơi theo đường dây cáp. Cách cửa hang độ nửa dặm thì Cyrus Smith ra lệnh:
- Dừng lại!
Con thuyền dừng lại và trước mắt các du khách rất đỗi ngạc nhiên loé lên ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp cái hang thiên nhiên ăn sâu trong lòng đảo. Ánh sáng ấy tất nhiên do nguồn điện cung cấp. Điện đã thay mặt trời chiếu sáng khắp nơi trong cái hang này.
Ở giữa hồ có vật gì đó dài, nhô lên khỏi mặt nước đã đóng băng và bất động. Vật ấy giống như một động vật ở biển thuộc họ cá voi, dài khoảng hai trăm năm mươi bộ và nhô cao trên mặt hồ chừng mười đến mười hai bộ.
Theo lệnh của viên kỹ sư, con thuyền bơi đến gần cái công trình kì lạ đang nổi trên mặt nước. Các tay chèo cập vào bên trái bức tường hình tròn của công trình, từ trong đó một chùm ánh sáng chói lòa toả sáng qua lớp kính dày.
Cyrus Smith và những người cùng đi trèo lên sàn. Trên ấy, một cái lỗ nhỏ gọi là cái cửa mở ra. Tất cả ùa vào đó.
Phía bên dưới cầu thang là một hành lang sáng rực ánh điện. Cuối cầu thang, các khách lạ nhìn thấy một cánh cửa ra vào. Cyrus Smith mở toang cửa. Đi vội qua một căn phòng được trang trí sang trọng, họ bước vào một thư viện kế bên. Nơi đây, trên trần ánh sáng toả chiếu rực rỡ. Ở cuối thư viện hoá ra còn có một cửa nữa. Viên kỹ sư mở luôn cánh cửa ấy. Và khi đó họ nhìn thấy một căn phòng rộng rãi, giống như một nhà bảo tàng. Trên chiếc đi văng lộng lẫy có một người đang nằm, hình như không nhận thấy sự xuất hiện của họ.
Cyrus Smith bước lên phía ấy và trước sự kinh ngạc của những người cùng đi, ông dõng dạc nói:
- Thưa thuyền trưởng Nemo, ngài đã gọi chúng tôi? Vậy chúng tôi đã có mặt.
Khi nghe những lời ấy, người đang nằm trên đi văng nhổm dậy, và ánh sáng chiếu rọi vào khuôn mặt của ông. Mái đầu ông tuyệt đẹp, vầng trán cao, cái nhìn kiêu hãnh, bộ râu bạc phơ, mái tóc dày được trải hất ra sau.
- Tôi không có tên, thưa ngài!
- Tôi biết tên ngài! – Cyrus Smith đáp.
Thuyền trưởng Nemo nhìn viên kỹ sư đăm đăm với ánh mắt rực lửa, như muốn tiêu diệt ông ta. Sau đó, ông ngã phịch xuống đi văng, thuyền trưởng thì thào:
- Rốt cuộc thì đằng nào cũng vậy thôi. Tôi sắp chết rồi.
Cyrus Smith bước lại gần thuyền trưởng Nemo hơn, còn Gédéon Spilett thì nắm tay thuyền trưởng.
Thuyền trưởng Nemo khẽ đưa tay ra hiệu mời chàng nhà báo và viên kỹ sư ngồi xuống.
Mọi người nhìn thuyền trưởng với niềm xúc động chân thành. Đây chính là ông, người mà họ gọi là “vị thần của đảo”, con người hùng mạnh, đã nhiều lần can thiệp và trở thành vị cứu tinh, ân nhân mà họ chịu ơn.
Thuyền trưởng lại nằm xuống đi văng và chống khuỷu tay chăm chú nhìn Cyrus Smith ngồi cạnh ông.
- Vậy là, thưa ngài, ngài biết cái tên mà tôi đang mang? – thuyền trưởng Nemo hỏi.
- Tôi biết! – Cyrus Smith đáp – Tôi còn biết cả chiếc tàu ngầm tuyệt diệu tên gì nữa.
- Nautilus! – thuyền trưởng mỉm cười.
- Vâng, Nautilus.
- Thế ngài có biết không? Ngài có biết tôi là ai không?
- Biết.
- Vậy, nhưng đã ba mươi năm nay tôi không có chút liên hệ nào với thế giới con người. Ai đã tiết lộ bí mật của tôi thế nhỉ?
- Một người nào đó đã không bị ràng buộc trách nhiệm đối với ngài, thưa thuyền trưởng Nemo!
- Phải chăng đó là người Pháp đã tình cờ lọt lên tàu của tôi mười sáu năm trước?
- Chính ông ta.
- Nghĩa là người ấy và hai người cùng đi đã không bị chết ở Malstrim, khi Nautilus bị kẹt ở đó?
- Không, họ đã không chết. Và thế là đã ra đời một cuốn sách với tựa đề “Hai vạn dặm dưới đáy biển”, trong đó có kể về lịch sử cuộc đời ngài.
- Lịch sử của mấy tháng trong đời tôi, thưa ngài! – thuyền trưởng sửa lại với một vẻ linh hoạt.
- Ngài nói đúng! – Cyrus Smith xác nhận. – Nhưng chỉ sống gần ngài mấy tháng thôi là đủ để phán xét ngài rồi.
- Như là một tên tội phạm lớn, có phải thế không? – Thuyền trưởng Nemo đáp lời và trên môi ông thoáng một nụ cười kiêu ngạo – Phải, như một tên phiến loạn, một kẻ li khai xã hội loài người.
Viên kỹ sư không trả lời.
- Sao ngài im lặng thế, thưa ngài.
- Tôi không có quyền phán xét thuyền trưởng Nemo. – Cyrus Smith nói – Ít nhất là không có quyền phán xét quá khứ của ông. Bởi vì không ai, trong đó có cả tôi biết được cái gì đã buộc ông phải sống một cuộc sống kì lạ như vậy, mà khi đã không biết nguyên nhân thì không nên phán xét hậu quả. Nhưng tôi biết chắc rằng sự can thiệp đầy thiện chí của ngài đã thường xuyên bảo vệ chúng tôi kể từ ngày chúng tôi có mặt trên đảo Lincoln; tôi biết tất cả chúng tôi suốt đời chịu ơn một ân nhân hùng mạnh, độ lượng, hiền từ, ân nhân ấy là ngài, thưa thuyền trưởng.
- Vâng, tôi đã giúp đỡ các bạn! – thuyền trưởng Nemo trả lời một cách giản dị.
Kỹ sư và chàng nhà báo đứng dậy. Những người bạn của họ bước tới, muốn bày tỏ với thuyền trưởng Nemo lòng biết ơn tràn đầy trái tim họ.
Thuyền trưởng Nemo đưa tay ngăn những biểu hiện tình cảm của họ và không giấu nỗi xúc động nói:
- Khoan đã, trước hết các vị hãy nghe tôi.
Thuyền trưởng Nemo kể lại toàn bộ cuộc đời mình bằng một ít lời cô đọng và rõ ràng.
Ông là một người gốc Ấn Độ, con trai của quận vương cai quản đất nước Bundelhand, cháu của vị anh hùng Tippo-Saib nổi tiếng ở Ấn Độ. Khi lên mười tuổi, cha cậu cho cậu sang châu Âu với ý muốn trang bị một kiến thức toàn diện cho cậu, và ông thầm mong đến một lúc nào đó, con trai của ông sẽ chiến đấu chống lại những kẻ áp bức đất nước yêu dấu của mình.
Từ mười đến mười ba tuổi, Dakkar – tên cậu bé, là một người có nhiều kỹ năng và trí tuệ khác người. Chàng đã học và nắm vững kiến thức các môn khoa học khác nhau, và đạt những hiểu biết rộng về lĩnh vực tự nhiên học, cũng như toán học và văn học nghệ thuật.
Thái tử Dakkar đã chu du khắp châu Âu.
Trang thanh niên tuấn tú người Ấn Độ ấy bao giờ cũng nghiêm nghị, thậm chí đăm chiêu, và say mê, khao khát, hiểu biết và có những năng khiếu kì lạ.
Là con trai của một trong những số những quận vương chỉ phục tùng nước Anh trên lời nói, thái tử thuộc dòng dõi Tippo-Saib được giáo dục theo tinh thần đấu tranh giành độc lập và báo thù.
Thái tử Dakkar trở thành một hoạ sĩ, một nhà bác học, một chính trị gia đã từng nghiên cứu đầy đủ ngọn ngành nghề ngoại giao trong các triều đình ở châu Âu.
Trên thực tế, chàng là một người yêu nước. Danh hoạ ấy, nhà bác học ấy, thiên tài ấy trong tâm hồn vẫn là một người Ấn Độ tràn đầy nỗi khao khát báo thù cho dân tộc.
Vào năm 1849, thái tử Dakkar trở về Bundelhand. Chàng cưới một cô gái dòng dõi quý tộc làm vợ. Cũng như chàng, trái tim nàng ứa máu khi nhìn thấy kẻ thù dày xéo trên tổ quốc mình. Người vợ đã tặng chàng hai đứa con, chàng yêu quý chúng tha thiết. Nhưng trong khi tận hưởng hạnh phúc gia đình chàng không thể quên đất nước Ấn Độ đang bị nô dịch. Chàng đợi thời cơ đấu tranh giành quyền độc lập.
Năm 1857, ở Ấn Độ đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của những người Sipai. Linh hồn của cuộc khởi nghĩa là thái tử Dakkar. Chàng đã phát động đông đảo quần chúng đứng dậy chống quân thù. Chàng đã hiến dâng cho sự nghiệp chính nghĩa tất cả tài năng và tài sản của mình. Chàng dũng cảm liều thân như một người bình thường nhất trong số những người anh hùng đã đứng dậy khởi nghĩa vì sự nghiệp giải phóng tổ quốc. Chàng đã tham gia vào hai mươi trận chiến và bị thương đến mười lần.
Tên tuổi của thái tử Dakkar trong những ngày tháng ấy trở lên lừng lẫy. Người anh hùng mang tên ấy đã không giấu mình và tiến hành cuộc đấu tranh một cách công khai. Cái đầu của chàng đã được trả giá, và mặc dù không có tên phản bội nào giao nộp chàng cho chính phủ bảo hộ Anh, nhưng cha, mẹ, vợ con chàng đã trả cả đời mình thay cho chàng.
Những người Sipai đã bị đàn áp dã man và các quốc gia thuộc Ấn Độ lại rơi vào ách thống trị tàn bạo của thực dân Anh.
Chàng đã đem tất cả những tài sản còn lại bán lấy tiền, tập hợp quanh mình những người bạn chiến đấu trung thành nhất và một ngày đẹp trời nọ chàng đã biến mất cùng với họ.
Thay vì người lính bây giờ chàng là nhà bác học. Một hòn đảo hoang ở Thái Bình Dương được dùng làm nơi trú ngụ của chàng. Chàng đặt ở đó một xưởng đóng tàu, và một chiếc tàu ngầm đã ra đời ở đó theo đồ án thiết kế của chàng. Chàng đã tận dụng nguồn điện lực thiên nhiên phục vụ cho mọi nhu cầu cần thiết trên con tàu ngầm của mình: chạy máy, thắp sáng, sưởi ẩm. Tất cả những gì thiên tai đã vùi dưới đáy biển và tài sản con người đã đánh mất ở đó hoàn toàn đáp ứng các nhu cầu của thái tử Dakkar và đoàn thuỷ thủ. Chàng đã đặt tên cho con tàu là Nautilus, cho mình là Nemo và biến mất dưới mặt nước.
Là một công dân Ấn Độ trong thế giới con người, ông đã thu thập được những báu vật kì lạ ở các thế giới huyền bí dưới mặt nước. Hàng kho châu báu chìm dưới vịnh Vigo năm 1702, khi những chiếc tàu Tây Ban Nha chở vàng bị đắm ở đây, đã trở thành nguồn của cải không bao giờ cạn đối với ông, luôn luôn thuộc quyền sử dụng của ông, không ai biết đến và tranh giành. Ông đã dùng số vàng này giúp đỡ những người chiến đấu cho nền độc lập của nước Ấn Độ.
Một thời gian dài ông không có bất kì cuộc tiếp xúc nào với loài người. Bất chợt đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng mười một năm 1866, có ba người đột nhiên xuất hiện trên tàu của ông; một vị giáo sư người Pháp, người hầu của ông ta và một thợ săn cá người Canada. Những người này được thuyền trưởng cứu vớt khi họ bị ngã xuống biển trong cuộc đụng độ giữa Nautilus với chiến hạm A.Lincoln của Mỹ khi chiến hạm đuổi theo chiếc tàu ngầm này.
Qua vị giáo sư người Pháp, thuyền trưởng Nemo biết rằng họ đã tưởng Nautilus khi thì là một động vật biển khổng lồ thuộc họ cá voi, khi thì là một tàu ngầm của bọn cướp biển mà trên khắp các đại dương người ta đang săn lùng.
Thuyền trưởng Nemo đã có ý định quẳng xuống đại dương ba người kì quặc đã ngẫu nhiên xâm nhập vào sự tồn tại bí ẩn của ông. Nhưng ông đã không làm như vậy, ông đã giữ họ làm tù binh trên tàu, và trong suốt bảy tháng trời họ đã chứng kiến tất cả những diễn biến kì lạ trong cuộc hành trình hai mươi vạn dặm dưới biển của tàu Nautilus.
Ngày 22 tháng sáu năm 1867, ba tù binh ấy, không biết gì về quá khứ của thuyền trưởng Nemo cả, đã bỏ trốn trên một chiếc thuyền mà họ đánh cắp của tàu Nautilus. Nhưng vì trong lúc ấy Nautilus bị dòng nước cực mạnh của biển Malstrim cuốn vào bờ biển Na Uy, nên thuyền trưởng Nemo cho rằng, gặp dòng xoáy khủng khiếp như vậy, những người chạy trốn chắc chắn bỏ mạng dưới đáy biển. Ông không biết rằng nhờ một sự may mắn kì lạ cả ba người trên đã được những dân chài ở Lofoten cứu thoát. Và giáo sư đã trở về Pháp, cho xuất bản một cuốn sách thuật lại cuộc hành trình dài bảy tháng trên tàu Nautilus, khiến cho các bạn đọc say mê những chuyến phiêu lưu diễn ra trong suốt cuộc hành trình lạ thường này.
Thuyền trưởng Nemo đã sống như vậy trong một thời gian dài sau đấy. Nhưng rồi những người cùng đi với ông lần lượt qua đời; ông đã chôn cất họ ở nghĩa đĩa san hô dưới đáy Thái Bình Dương. Tàu Nautilus trở nên trống trải, tất cả những người đã cùng trốn khỏi thế giới của loài người chỉ còn có mỗi mình thuyền trưởng Nemo là còn sống.
Lúc ấy thuyền trưởng đã 60 tuổi. Ông đã đưa được Nautilus vào một bến cảng ngầm, nơi tàu ông thỉnh thoảng lặn xuống sau các cuộc hải trình. Đó là một cái hang được địa chất kiến tạo, nằm phía dưới đảo Lincoln, bây giờ nó vẫn đang là trạm dừng của Nautilus.
Đã sáu năm nay thuyền trưởng Nemo sống ở đây, và ông đang chờ chết. Ông gọi đó là khoảnh khắc mà ông đang chờ chết. Ông gọi đó là khoảnh khắc mà ông sẽ hòa nhập cùng với các bạn đồng đội của mình, tình cờ ông đã chứng kiến sự kiện quả khí cầu cùng với năm tù bình của quân đội miền Nam chạy trốn khỏi Richmond bị rơi xuống đảo. Ông mặc áo lặn, thực hiện một cuộc dạo chơi dưới nước cách đảo vài cabeltov, đúng nơi kỹ sư Cyrus Smith đã bị biển nhận chìm và thuyền trưởng Nemo đã cứu thoát ông ta.
Thoạt đầu ông định trốn năm nhà du hành trên khinh khí cầu bị nạn, nhưng lối ra khỏi cảng đã bị bịt kín. Do những cơn địa chấn của núi lửa sắp hoạt động nên đáy của hang đá bị trồi lên, và Nautilus không thể thoát ra khỏi bến cảng ngầm được.
Thế là thuyền trưởng Nemo đành ở lại. Ông bắt đầu theo dõi những người láng giềng của mình bị quẳng lên hòn đảo không người và thiếu thốn mọi phương tiện vật chất. Nhưng tự ông không muốn ra mắt họ. Dần dần, thấy đó là những con người cao thượng, có nghị lực, gắn bó nhau bằng tình hữu ái, ông quan tâm đến cuộc đấu tranh thiên nhiên của họ. Dù muốn hay không, ông cũng đi sâu vào những bí mật của họ. Với bộ đồ lặn, ông đã luồn lách xuống đáy biển dưới Lâu đài Đá hoa cương, leo theo các bậc thành giếng lên miệng trên, nghe những người ngụ cư kể về quá khứ của mình, bàn về tình hình hiện tại và phác hoạ các kế hoạch cho tương lai… Phải, những con người tình cờ bị rơi trên đảo này xứng đáng được kính trọng và có thể hòa giải giữa thuyền trưởng Nemo với nhân loại, vì họ là những đại diện hào hiệp nhất của loài người.
Thuyền trưởng Nemo đã cứu Cyrus Smith; cũng chính ông đã dẫn con Top về Hang ngụ cư, ông đã thả xuống mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng đồ dùng cần thiết cho họ. Ông đã tháo dây buộc cho chiếc thuyền trôi xuôi dòng Tạ ơn. Ông đã cho nổ chiếc tàu cướp bằng trái thuỷ lôi đặt dưới eo biển; ông đã đem thuốc sunfat quinin đến và cứu sống Harbert, và cuối cùng, cũng chính ông đã tiêu diệt bọn cướp biển bằng đạn điện – phát minh mà ông dùng để săn dưới nước. Đấy là những lời giải thích cho tất cả những sự kiện mà trước đó những người trên đảo cứ tưởng như là hiện tượng siêu nhiên; Tất cả những chuyện này đều chứng tỏ sự độ lượng và sự hồn hậu của thuyền trưởng Nemo.
Thuyền trưởng Nemo kết thúc câu chuyện về đời mình. Khi ấy Cyrus Smith mới nói, ông nhắc lại tất cả những trường hợp mà sự can thiệp của người lạ mặt cao cả đã đem lại lợi ích cho vùng di dân, nhân danh cá nhân và nhân danh các bạn mình, Smith đã cảm ơn thuyền trưởng về tất cả những nghĩa cử mà ông đã đem lại cho họ.
Nhưng thuyền trưởng Nemo không yêu cầu sự biết ơn của những người được mình giúp đỡ. Một ý nghĩ cuối cùng đã làm cho ông xúc động, và khi đã bắt tay viên kỹ sư, ông nói:
- Còn bây giờ, thưa ngài, khi các ngài đã biết cuộc đời tôi, các ngài hãy phán xét tôi đi.
Khi nói điều ấy, có lẽ thuyền trưởng muốn ám chỉ trường hợp rủi ro mà ba người nước ngoài tình cờ lọt lên tàu Nautilus đã chứng kiến. Về chuyện này ông chắc chắn vị giáo sư người Pháp đã kể hết trong cuốn sách của mình.
Thật ra, mấy ngày trước khi vị giáo sư và hai người bạn của ông chạy trốn, Nautilus, lúc ấy đang đi dọc các vĩ độ bắc của Đại Tây Dương, và nó đã xông vào một chiến hạm truy kích nó, lấy cả thân tàu đâm mạnh vào và nhận chìm chiến hạm ấy không chút thương tiếc.
Cyrus Smith hiểu những lời thuyền trưởng Nemo ám chỉ và không trả lời gì.
- Vì đó là một chiến hạm của nước Anh! – thuyền trưởng Nemo kêu lên, trong ông thoáng sống lại hình ảnh của thái tử Dakkar – Một chiến hạm Anh! Các ngài có nghe rõ không? Nó đã tấn công tôi. Nó đã hãm tôi vào một cái vịnh hẹp, nông… Tôi cần phải thoát ra với bất cứ giá nào và tôi đã thoát ra được! – sau đấy, ông ta bình tĩnh hơn – cả pháp lí lẫn công lí đều thuộc về tôi. Ở khắp mọi nơi, hễ có thể là tôi làm điều thiện cho mọi người. Cũng có khi phải làm cả điều ác. Không phải khi nào sự tha thứ cũng là hành vi đúng đắn đâu!
Sau khi ngưng câu chuyện một lát, thuyền trưởng Nemo nhắc lại:
- Các ngài nghĩ gì về tôi, hãy nói đi!
Cyrus Smith đã chìa tay ra cho thuyền trưởng bắt và trả lời bằng một giọng nghiêm trang.
- Thưa thuyền trưởng Nemo, lỗi của ngài là ở chỗ ngài đã định làm sống lại quá khứ bị tráng và đã dấn sâu vào một cuộc đấu tranh kì lạ. Ngài đã gây cho một số người sự khoái trá, song cũng làm những người khác tức giận, lí trí của con người có thể hiểu được, còn phán xử chúng thì chỉ có trời mà thôi. Ngài đã đi theo con đường không đúng. Tuy xuất phát từ những động cơ lành mạnh… Những sai phạm của ngài thuộc số những bôi nhọ không thanh danh, và ngài chẳng có gì phải sợ sự phán xét của lịch sử. Con người ưa thích những hành động cuồng dại mang tính anh hùng, mặc dù lịch sử sẽ tuyên án nghiêm khắc những hậu quả của chúng.
Thuyền trưởng Nemo thở dài nặng nhọc và giơ tay lên trời, khẽ nói:
- Tôi đáng bị hành xử, đúng hay sai?
Cyrus Smith nhắc lại:
- Về những hành vi vĩ đại hãy để trời phán xét vì mọi sự đều từ trời mà ra! Thưa thuyền trưởng Nemo, những con người lương thiện đang đứng đây, những người đã được ngài giúp đỡ nhường ấy, sẽ luôn luôn khóc thương ngài.
Harbert bước đến thuyền trưởng Nemo và quỳ xuống, cầm tay ông đưa lên môi mình.
Những giọt lệ từ mắt của người hấp hối trào ra.
- Con của ta. – ông thì thào – Cầu phước luôn đến với con!...

Chương 15
Tác giả: Jules Verne

Trong khi người bệnh nằm bất động, mê man, Cyrus Smith và Gédéon Spilett chăm chú theo dõi tình trạng sức khỏe của ông. Rõ ràng hơi thở ông đang yếu dần và sắp tắt hẳn.
Cyrus Smith và các bạn của ông đi đến gần đi văng, sửa lại gối cho người bệnh nằm được thoải mái hơn.
Họ nhận thấy thuyền trưởng Nemo đưa mắt nhìn khắp lượt những kì quan đặt trong căn phòng của ông đang ngập tràn ánh điện sáng dịu từ trên trần toả xuống.
Cuối cùng thuyền trưởng Nemo đã quay mặt về phía những người ngụ cư nói:
- Các ngài cho rằng tôi xứng đáng với lòng biết ơn của các ngài?
- Thưa thuyền trưởng, tất cả chúng tôi đều sẵn sàng cống hiến đời mình, chỉ mong sao kéo dài được tuổi thọ của ngài.
- Tuyệt lắm! – thuyền trưởng Nemo nói tiếp – Tuyệt lắm! Các ngài hãy hứa với tôi, rằng các ngài sẽ thực hiện di chúc của tôi và khi ấy tôi sẽ coi như được ban thưởng về tất cả những gì mà tôi đã làm cho các ngài.
- Chúng tôi xin hứa! – Cyrus Smith trả lời – Nhân danh cá nhân và thay mặt các bạn mình.
- Ngày mai tôi sẽ chết. – thuyền trưởng nói.
Ông đưa tay ngăn Harbert định phản đối điều gì đó.
- Ngày mai tôi sẽ chết. – ông nhắc lại – Và tôi muốn Nautilus trở thành chiếc áo quan của tôi. Tất cả bạn bè tôi đều yên nghỉ dưới biển. Tôi muốn nằm cùng họ.
Mọi người im lặng, lắng nghe những lời trối trăn của thuyền trưởng Nemo.
- Các ngài hãy nghe tôi! – ông nói – Nautilus đã trở thành tù binh, bởi vì đáy của hang động này đã trồi lên sát lối vào. Giờ đây nó không thể chạy khỏi ngục tối. Tuy nhiên ít nhất nó cũng có thể hạ xuống vực thẳm bên dưới mình và mai táng di hài của tôi trong đó.
Những người ngụ cư lắng nghe ông nói với vẻ sùng kính.
- Ngày mai, sau khi tôi chết, – thuyền trưởng Nemo nói tiếp – Ngài Smith và các bạn của ngài phải rời khỏi Nautilus. Tôi muốn tất cả những của cải mà tôi thu thập được trong tàu biến đi cùng với tôi. Để kỉ niệm về thái tử Dakkar mà tiểu sử của ông ta bây giờ ngài đã biết, tôi xin dành một vật tặng cho các ngài: vật đó là cái tráp con này đây… Trong tráp đó có những hạt kim cương đáng giá vài triệu đồng… Phần lớn những viên kim cương này này có liên quan đến quá khứ của tôi, khi tôi là một người chồng và một người cha, khi tôi tin rằng trên trái đất này có tồn tại hạnh phúc. Trong ấy cũng còn có những hạt ngọc trai chọn lọc do tôi và các bạn của tôi tìm được dưới đáy biển. Với những vật báu này, đến một lúc nào đó các ngài sẽ làm được nhiều điều tốt, tôi tin như vậy. Trong tay những người như ngài và các bạn của ngài, thưa ngài Smith, tiền sẽ không trở thành công cụ của tội ác. Linh hồn tôi sẽ nhập vào sự nghiệp của các ngài – Tôi tin các ngài không e ngại gì hết.
Thuyền trưởng Nemo im bặt – do sức yếu ông không nói được nữa, nhưng nghỉ một lát, ông tiếp lời.
- Ngày mai các ngài lấy cái tráp con này, ra khỏi phòng và khoá cửa lại. Sau đó, các ngài leo lên cầu thang của Nautilus, hạ nắp cửa xuống và đóng kín lại.
- Mọi việc sẽ được làm đúng như ngài chỉ dạy, thưa thuyền trưởng! – Cyrus Smith đáp.
- Tốt. Sau đấy, các ngài hãy ngồi vào chiếc thuyền đã dùng để đi đến đây. Nhưng trước khi rời khỏi Nautilus các ngài hãy bơi lại phía đuôi tàu và mở hai cái vòi lớn ở đường máng nước đằng đó ra. Nước sẽ ào vào các buồng. Nautilus sẽ dần dần chìm xuống nước và được mai táng ở đáy vực thẳm.
Cả Cyrus Smith lẫn các bạn ông đều cho rằng mình không có quyền phản đối thuyền trưởng Nemo điều gì. Ông ấy nói lên những lời di chúc của mình, họ chỉ còn có việc thực hiện.
- Các ngài đã hứa với tôi rồi nhé! – người đang hấp hối khẽ nói.
- Chúng tôi giữ lời hứa. – viên kỹ sư đáp.
Thuyền trưởng chỉ ra hiệu tỏ lòng cảm ơn và yêu cầu được ở lại một mình trong vài giờ.
Mọi người ra khỏi phòng, đi về phía mũi tàu, họ vào phòng máy, nơi đặt máy phát điện cung cấp cho Nautilus ánh sáng, nhiệt năng và các động cơ của tàu.
Nautilus là một kì quan thật sự của khoa học kĩ thuật, chứa đựng trong nó nhiều điều khác thường khiến viên kỹ sư rất thích thú.
Những người ngụ cư trèo lên sàn tàu cao hơn mặt nước bảy, tám bộ. Ở đó họ ghé vào mộ thấu kính lồi làm bằng thuỷ tinh dày, qua đó thấy có một buồng lái để không. Đã có một thời người lái tàu Nautilus ở đó, lái nó xuyên qua nhiều tầng nước biển, có ánh điện toả sáng soi rọi đường cho nó chạy.
Sau khi trò chuyện với nhau hồi lâu, Cyrus Smith và các bạn ông đã trở xuống phòng của Nemo.
- Các ngài, – thuyền trưởng nói – các ngài là những con người dũng cảm, trung thực và nhân từ. Các ngài đã hết mực trung thành với sự nghiệp trung của mình. Tôi thường xuyên theo dõi các ngài. Tôi rất quý ngài! Hãy đưa tay đây, ngài Smith.
Cyrus Smith chìa tay ra, thuyền trưởng Nemo nắm chặt lấy.
- Vậy là tốt! – ông thì thầm, rồi nói to lên – Nhưng, nói về tôi thế là đủ rồi. Bây giờ tốt hơn là hãy nói về bản thân các ngài và đảo Lincoln, nơi các ngài đã tìm được chỗ ở… Các ngài định rời khỏi đây phải không?
- Nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở lại! – Pencroff nhanh nhảu trả lời.
- Trở lại? Thôi được, Pencroff, tôi biết các bạn yêu hòn đảo này như thế nào, – thuyền trưởng mỉm cười, nói – Nhờ những nỗ lực của các bạn mà ở đây đã có nhiều thay đổi, và đó thật sự là hòn đảo của các bạn.
- Kế hoạch của chúng tôi là thế này, thưa thuyền trưởng! – Cyrus Smith nói ngay – Chúng tôi tặng hòn đảo cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
- Các ngài nghĩ về đất nước của các ngài, – thuyền trưởng trả lời – Các ngài đã lao động vì sự phồn vinh của đất nước. Và các ngài đúng. Tổ quốc là trên hết! Tất nhiên. Cần phải trở về Tổ quốc khi chết làm sao được nằm trên quê cha, đất tổ! Thế mà tôi thì lại chết ở xa tất cả những gì mà tôi yêu, tôi quý!
- Có lẽ ngài nên chuyển cho ai đó lời di chúc của ngài? – viên kỹ sư nói – Có thể, ngài gởi một di vật gì đó để kỉ niệm cho bạn bè? Chắc ngài còn bạn bè ở Ấn Độ.
- Không, thưa ngài Smith. Tôi không còn bạn bè nữa! Tôi là người cuối cùng trong dòng họ của tôi… Còn những ai biết tôi thì cho rằng tôi đã chết từ lâu. Ở đây tôi sẽ được an giấc ngàn thu, miễn là… – thuyền trưởng Nemo ấp úng, và bỏ lửng câu nói trên, ông tiếp lời: - Thưa ngài Smith, tôi muốn được nói chuyện riêng với ngài.
Tôn trọng ý muốn của người đang hấp hối, các bạn của viên kỹ sư ra khỏi phòng.
Thuyền trưởng Nemo nói chuyện tay đôi với Cyrus Smith mấy phút về việc gì đấy, sau đó kỹ sư gọi các bạn mình lại, nhưng không nói gì với họ về điều mà người hấp hối cho ông biết…
Đêm đến, trạng thái của người bệnh hầu như không có sự biến chuyển gì. Những người ngụ cư không phút nào rời Nautilus. Chẳng bao lâu, sau lúc nửa đêm, thuyền trưởng Nemo tập trung sinh lực cuối cùng, đưa tay lên để chéo trước ngực với một vẻ khó nhọc, dường như ông muốn chết ở một tư thế bình thản như vậy.
Gần hai giờ sáng, toàn bộ sự sống của ông tập trung trong ánh mắt nhìn chăm chú. Hai con ngươi của ông ngời lên những ánh lửa sự sống lần cuối cùng. Rồi ông thì thào: “Thượng đế và Tổ quốc!” và lặng lẽ qua đời.
Những người ngụ cư đã làm theo những điều thuyền trưởng Nemo yêu cầu. Họ khoá chặt cửa tàu để không giọt nước nào thấm vào. Sau đó, họ tháo hai vòi nước lớn ở đuôi tàu, nước chảy qua các buồng, Nautilus chìm dần và biến khỏi mặt nước phẳng lặng.
Cyrus Smith và các bạn của ông đã rời khỏi Nautilus, mang theo món quà tặng duy nhất mà ân nhân quá cố của họ đã để lại: Cái tráp nhỏ đựng những của cải giá trị cao.
Những người ngụ cư còn nhìn thấy hồi lâu con tàu ở sâu dưới biển qua tầng nước dày. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn điện mạnh, làn nước biển lấp lánh một màu trong xanh, trong khi cái hang động lấy lại hình ảnh một hầm mộ đen ngòm. Nhưng cuối cùng, quầng sáng rực rỡ của tàu cũng mờ dần, và Nautilus trở thành chiếc quan tài của thuyền trưởng Nemo nằm bất động dưới đáy biển.*
* * Ngày đầu năm mới, năm 1869, được đánh dấu bằng một trận bão khủng khiếp. Sét đã nhiều lần đánh xuống đảo Lincoln. Một số cây cổ thụ bị đổ. Phải chăng tự nhiên đã thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa những cơn giông, bão với hiện tượng quái gở đang phát sinh trong lòng đất? Phải chăng những trận giông, bão này là sự phản ánh của những chuyển dịch đã xảy ra trong các tầng sâu của đảo Lincoln?
Ngày 3 tháng giêng, Harbert dậy từ lúc hừng sáng, chú đã lên cao nguyên Tầm nhìn để thắng xe cho một con la kéo, bỗng chú thấy trên miệng núi Franklin một cột khói lớn phun thẳng. Harbert vội vàng báo cho những người khai khẩn khác biết. Họ cũng đã lên ngay cao nguyên và bắt đầu chăm chú nhìn về hướng núi.
- Ừ nhỉ! – Pencroff kêu lên – Lần này thì không phải là đơn giản là hơi nước nữa rồi! Tuồng như chàng dũng sĩ của chúng ta không những thở, mà lại còn hút thuốc nữa!
Cyrus Smith chăm chú quan sát những cụm khói từ miệng Franklin phun ra. Rồi ông bước đến chỗ các bạn mình và nói:
- Các bạn của tôi, quả thật trong lòng hòn đảo đang xảy ra những biến động rất đáng lo ngại. Chúng ta sẽ không dối mình trước tình hình đó. Cái khối chất lỏng trong núi lửa không những đang ở trạng thái sôi, mà chúng đã bùng cháy, và có thể trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ bị phún xuất đe doạ.
- Kệ nó, thưa ngài Cyrus! – Pencroff kêu lên – Chúng ta hoan nghênh hiện tượng này. Biết đâu, bỗng nhiên núi lửa lại phun cho chúng ta những loại quặng hữu ích và quý hiếm thì sao. Ngài đừng lo, chúng ta sẽ biết tận dụng tấm lòng tử tế của nó.
Nhưng, Cyrus Smith lắc đầu không tán thành cách khôi hài của Pencroff. Nét mặt ông bộc lộ rằng cá nhân ông không hi vọng sự tốt lành nào ở quá trình chuyển biến nhanh đến như thế của núi lửa.
- Tôi cảm thấy, – bỗng Ayrton nói (anh ta đã nằm, ghé tai xuống đất nghe ngóng), – tôi nghe có tiếng ầm ầm giống như có tiếng sấm rền vậy.
Những người ngụ cư chăm chú lắng nghe và phải thừa nhận Ayrton nói đúng. Tiếng ầm ầm có lúc kèm theo tiếng ồn ào dưới đất lúc mạnh lên, lúc lắng xuống – có cảm giác như trong lòng đất đang bị một cơn lốc dữ dội hoành hành. Tuy nhiên vẫn chưa nghe thấy những âm thanh điển hình của hiện tượng phún xuất phát nổ.
Đến tối, sau khi ăn xong, Cyrus Smith cùng Gédéon Spilett và Harbert đi lên cao nguyên Tầm nhìn. Bóng tối đã bao phủ mặt đất, nhưng lại thuận lợi cho nhiệm vụ của họ là xác định xem lẫn trong hơi và khói bao trùm quanh miệng, núi lửa đã phun ra những hạt nham thạch bị nóng chảy chưa.
- Miệng núi Franklin ngập lửa kìa? – Harbert chạy vượt lên mọi người, đến cao nguyên Tầm nhìn trước tiên, bỗng kêu lên.
- Các bạn có cảm thấy đất rung chuyển không? – Cyrus Smith hỏi.
- Thấy, - Gédéon Spilett trả lời – nhưng đó chưa phải là động đất thật sự.
- Tôi cũng không bảo là chúng ta đang bị hiện tượng động đất đe doạ – Cyrus Smith nhanh nhẹn đáp lại, – cầu trời tránh cho chúng ta cái tai hoạ ấy.
Gédéon Spilett không hỏi gặng nữa… và lát sau, bất chấp tiếng ầm ầm dưới đất mỗi lúc một to hơn và vang vọng khắp đảo, các cư dân trong Lâu đài Đá hoa cương đã thiếp đi trong giấc ngủ bình yên. Hừng sáng hôm sau, Ayrton và viên kỹ sư ngồi lên trên chiếc xe kéo được thắng một cặp la; chúng phóng nước kiệu đến khu chăn nuôi.
Ayrton chăm sóc đàn gia súc, còn Cyrus Smith thì đi ngược dòng suối Đỏ, đến nơi mà trước đây những người ngụ cư đã phát hiện ra nguồn hơn lưu huỳnh.
Bây giờ đây không phải chỉ có một luồng khói, mà là những mười ba luồng khói từ dưới đất phun lên rất mạnh. Rõ ràng là ở chỗ này vỏ trái đất đã phải chịu một áp lực bên trong rất khủng khiếp. Khi nghiên cứu sườn phía bắc của núi Franklin viên kỹ sư cũng gặp một cảnh tượng như vậy, có khi còn rõ ràng hơn ở khu vực suối Đỏ.
Sau đó, viên kỹ sư trở lại khu chăn nuôi, vừa đi vừa lắng nghe tiếng ầm ầm dưới mặt đất giống như những chuỗi sấm rền liên tục; thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng nổ lớn như đạn pháo. Mười giờ, ông đã có mặt ở khu chăn nuôi.
Ayrton đợi ông ở đó.
- Tôi đã cho súc vật ăn rồi. Những con vật bồn chồn thế nào ấy, thưa ngài Smith – Ayrton nói.
- Chúng có linh tính đấy, mà linh tính súc vật thì không sai đâu.
- Thế bây giờ…
- Anh mang theo đèn và bật lửa, Ayrton, – viên kỹ sư đáp – và đi theo tôi.
Ayrton làm theo lệnh của viên kỹ sư.
Hai người cùng đi đến hang Dakkar theo một con đường mòn hẹp. Họ đi tựa hồ như trên một lớp bông, toàn bộ mặt đất phủ kín những hạt bụi nhỏ li ti trên trần hang rơi xuống.
Thật dễ hiểu, trong những điều kiện như thế thì Cyrus Smith và Ayrton không thể rảo bước được. Tuy vậy, chẳng bao lâu họ cũng lần xuống được tới cửa hang Dakkar.
- Chiếc thuyền còn ở đây chứ? – viên kỹ sư hỏi.
- Vâng. – Ayrton trả lời và kéo chiếc thuyền gọn nhẹ mà anh cùng với Pencroff đã giấu dưới vòm hang đá baran.
- Thế thì ta đi thôi.
Cả hai người ngồi trong thuyền và bơi đi. Ayrton đặt đèn ở mũi thuyền để rọi đường… Họ bơi dọc theo các thành hang bên phải. Một lát sau, viên kỹ sư đã phân biệt rõ tiếng ầm ầm từ trong lòng đất dội lên.
- Đấy là núi lửa đang hoạt động! – ông nói.
Chẳng bao lâu, hòa vào tiếng ầm ầm dưới đất là mùi hăng hắc của các hợp chất hoá học bốc hơi.
- Thuyền trưởng Nemo sợ chính cái điều này đây! – Cyrus Smith lẩm bẩm, và gương mặt ông hơi tái đi. – Dẫu sao chúng ta cũng phải tới đích.
Chừng độ hai mươi lăm phút sau, kể từ lúc bắt đầu bơi, con thuyền đã đến cuối hang và dừng lại. Cyrus Smith soi đèn vào từng phần của bức thành ngăn cách hang với miệng núi lửa. Không thể đoán được độ dày của bức thành hang là bao nhiêu. Nhưng chắc gì thành hang quá dày bởi vì tiếng ầm ầm dưới lòng đất ở đây nghe rõ mồn một.
Sau khi khảo sát theo đường ngang, viên kỹ sư lại soi đèn dọc theo thành đá badan, cố rọi sáng phần trên của nó.
Ở đó, ông thấy có khói như hắc ín toả ra qua các kẽ nứt, đầu độc bầu không khí trong hang. Toàn bộ bức thành đá đều nham nhở bởi những vết nứt, một số trong đó, nhất là những vết nứt nổi rõ tren mặt đá badan bằng phẳng, đã lan xuống gần sát tận nước. Cyrus Smith đứng trầm ngâm. Sau đó, Ayrton thoáng nghe thấy ông lẩm bẩm:
- Đúng, thuyền trưởng Nemo đã nói đúng! Ở đây hang động tiềm ẩn một nguy cơ thật khủng khiếp!
Ayrton không hỏi gì. Theo hiệu lệnh bằng tay của Cyrus Smith, anh ta lại chèo thuyền đi, và nửa giờ sau họ ra khỏi hang.*
* * Sau khi làm việc cả ngày ngoài khu chăn nuôi và tin chắc rằng công việc ổn thoả, Cyrus Smith và Ayrton đã ngủ đêm tại đó và sáng ngày 8 tháng giêng họ trở về Lâu đài Đá hoa cương.
Ngay lập tức, viên kỹ sư triệu tập các bạn thông báo với họ rằng hòn đảo đang bị đe doạ bởi một nguy cơ lớn mà không có sức mạnh nào của con người có thể ngăn nổi.
- Các bạn, – ông nói, giọng lộ rõ sự xúc động sâu sắc, – hòn đảo Lincoln không thuộc một trong số những hòn đảo mà cấu tạo địa chất có thể tồn tại lâu dài với toàn trái đất. Nó không tránh khỏi sự phá huỷ đang tới gần, nguyên nhân sự diệt vong nằm ngay trong chính bản thân nó và không có gì cứu vãn.
Những người ngụ cư đưa mắt nhìn nhau, rồi ngơ ngác nhìn Cyrus Smith – họ không hiểu hết ý nghĩa của những lời ông nói.
- Hãy giải thích rõ hơn, Cyrus – Gédéon Spilett nói.
- Tôi sẽ giải thích ngay bây giờ, – Cyrus Smith trả lời – Tôi sẽ truyền đạt lại cho các bạn biết điều mà thuyền trưởng Nemo dã nói riêng với tôi trong cuộc trao đổi ngắn lần cuối cùng của chúng tôi. Trước khi chết, ông ấy còn muốn giúp đỡ chúng ta bằng một lời tiên tri khủng khiếp.
- Nhưng thuyền trưởng Nemo đã nói gì với ông vậy? – nhà báo hỏi.
- Các bạn biết không, - viên kỹ sư trả lời – hòn đảo Lincoln có cấu tạo khác với những hòn đảo ở Thái Bình Dương: Lớp vỏ trái đất ở đây quá mỏng, do vậy phần đất ngầm của nó sớm muộn thế nào cũng phải sụp đổ… thuyền trưởng Nemo đã nhận định như thế và bản thân tôi ngày hôm qua cũng xác minh lại được điều này sau khi xem xét hang Dakkar. Cái hang ở dưới hòn đảo, thông tới sát dòng núi lửa và chỉ cách lò lửa trung tâm một bức tường nối liền nhau. Nhưng toàn bộ bức tường ấy đã bị rạn nứt và khí sunfuarơ hình thành bên trong núi lửa đã lọt qua những kẽ nứt đó.
Đêm 23 rạng ngày 24 tháng, dưới áp lực của phún thạch đã dâng lên đến tận miệng núi lửa, đỉnh núi hình chóp, nom giống như một cái nón, đã bị bật tung ra. Tiếng ầm ầm vang lên không thể tưởng tượng nổi. Những người ngụ cư tưởng đảo bị sup lở nên đã lao ra khỏi Lâu đài Đá hoa cương.
Lúc ấy là hai giờ đêm.
Cả bầu trời ngập trong biển lửa. Miệng núi lửa bây giờ đã hoác rộng ra, phun lửa lên trời đỏ rực. Dòng phún thạch chảy tràn theo các sườn núi, trông như hàng ngàn con rắn lửa khổng lồ.
- Khu chăn nuôi! Khu chăn nuôi! – Ayrton kinh hoàng kêu lên.
Đúng là phún thạch đã chảy về phía khu chăn nuôi, do đó sẽ huỷ diệt mất phần đất màu mỡ của đảo. Đáp lại lời của Ayrton, mọi người lao vào chuồng la. Trong nháy mắt họ đã thắng xong xe kéo. Tất cả đều chung một ý nghĩ: phóng ra khu chăn nuôi, thả đàn gia súc bị nhốt ở đó ra.
Một giờ sau, cả khu chăn nuôi ngập tràn phún thạch, căn nhà Ayrton bị cháy, hàng rào bị lửa thiêu huỷ. Khu chăn nuôi không còn sót lại một thứ gì nữa!
Đã sang ngày 24 tháng giêng. Trước khi trở về Lâu đài Đá hoa cương, Cyrus Smith và các bạn của ông đã quyết định xem xét hướng phún thạch cuối cùng sẽ chảy về đâu. Bắt đầu từ núi Franklin, bề mặt đảo dốc về bờ biển phía đông, vì vậy họ cho rằng dòng phún thạch sẽ chảy đến cao nguyên Tầm nhìn.
- Hồ nước sẽ bảo vệ chúng ta. – Gédéon Spilett nói.
- Hi vọng như thế! – Cyrus Smith đáp lại gọn lỏn.
Cyrus Smith không bao giờ mất bình tĩnh trong những hoàn cảnh hiểm nghèo. Ông biết rằng trước mắt ông là những con người có khả năng chấp nhận sự thật cay đắng nhất, và ông đã nói:
- Có thể là hồ nước sẽ chặn đứng dòng phún thạch. Nếu vậy thì một phần hòn đảo sẽ thoát khỏi cảnh phá hoại hoàn toàn, nhưng cũng rất có thể là phún thạch sẽ chảy tràn lan sang các khu rừng Viễn Tây, huỷ hoại hết thảy cây cối trong rừng và trên đảo sẽ không còn lại ngọn cỏ nào. Khi ấy tử thần sẽ đợi chúng ta trên các vách đá trần trụi, và không phải đợi lâu đâu, bởi vì hòn đảo sẽ nổ tung giữa trời.
Đúng lúc ấy, dòng phún thạch len giữa những hàng cây đẹp đẽ đã bị nó thiêu huỷ, lấn dần đến hồ nước. Trên đường nó gặp một cái gò nhô cao lên, giá mà cái gò đó dựng đứng và cao hơn thì nó đã chặn được dòng phún thạch.
Những người ngụ cư ngây người ra đứng nhìn cảnh vật lộn diễn ra trước mặt họ giữa hai lực lượng tự nhiên – lửa và nước. Những dòng phún thạch sôi sục chảy xuống hồ, thế là nước xèo xèo bốc thành hơi. Những cụm hơi trắng bốc lên rõ cao, xoáy tít như một cơn lốc, giống như có ai đó xả van chiếc nồi hơi khổng lồ ra. Nhưng, dù lượng nước trong hồ nhiều đến đâu thì cuối cùng lửa cũng hút khô, bởi vì nước cạn đi không được bổ sung, còn con sông lửa khủng khiếp có nguồn mạch lửa vô tận tiếp thêm thì không ngừng tuôn ra những lớp sóng dung nham mới.
Đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng ba, từ miệng núi lửa một cột khói đã bùng phát ầm ầm như sấm dậy và bốc lên cao trên ba ngàn bộ. Hẳn là thành hang Dakkar đã bị sụp xuống dưới áp suất của khí sunphat bị nén, nước biển đã ùa vào lò lửa trung tâm của núi lửa và khí đã không tìm được lối thoát tự do nữa. Một tiếng nổ với sức mạnh khủng khiếp đã vang lên, cách xa cả trăm hải lý cũng nghe thấy. Những mảnh đá bay tung, rơi xuống đại dương, và vài phút sau, nước biển phủ kín nơi vừa mới đây còn là hòn đảo Lincoln.

Chương 16
Tác giả: Jules Verne

Một tảng đá đơn độc dài ba mươi bộ, bề ngang chừng mười lăm bộ, chỉ hơi nhú khỏi mặt nước mười bộ – đấy là những gì còn lại của hòn đảo đã bị đại dương nuốt chửng – mảnh vụn duy nhất của dãy núi đã tàng ẩn trong mình Lâu đài Đá hoa cương… Cả đảo Lincoln chỉ còn nguyên vẹn một tảng đá hẹp mà giờ đây được dùng làm nơi nương tựa cho sáu người ngụ cư và con chó Top của họ.
Trong thảm hoạ vừa qua tất cả thú vật bốn chân, chim chóc và các loài động vật khác trên đảo đều bị thiêu thành tro – số thì bị đè bẹp, số khác thì bị chết đuối. Than ôi, cả chú Jup bất hạnh cũng không thoát, có lẽ nó bị ngã xuống một khe nứt trên mặt đất!
Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Harbert, Pencroff, Nab và Ayrton còn sống được chỉ là họ đang ngồi với nhau trong lều thì bị một làn sóng không khí hất họ rơi xuống biển đúng lúc tứ phía bị những mảnh vỡ củ đảo rơi xuống như mưa. Khi họ ngoi được lên mặt nước cách bờ nửa cabeltov và nhìn quanh thì chỉ thấy có một tảng đá này và bơi đến, leo lên.
Họ đã sống trên tảng đá trần trụi ấy chín ngày rồi! Một chút lương thực nào đấy được lấy từ kho của Lâu đài Đá hoa cương ngay trước lúc xảy ra thảm hoạ, một ít nước mưa đọng lại trong trũng đá – đấy là tất cả những gì mà những người bất hạnh có được. Con tàu của họ, niềm hi vọng cuối cùng của họ, đã bị vỡ tan tành. Họ bị mất hết khả năng thoát khỏi tảng đá này. Họ bị lạnh và giờ đây không thể kiếm được lửa nữa. Số phận đã định sẵn cho họ cái chết.
Đến ngày thứ chín, 18 tháng ba, lương thực chỉ còn cho hai ngày, mặc dù họ đã cắt bớt khẩu phần đến mức thấp nhất. Tất cả kiến thức của họ, tất cả trí tuệ của họ đều không thể giúp ích gì trong tình trạng nguy khốn như thế này. Số phận của những người ấy hoàn toàn tùy thuộc mệnh trời.
Cyrus Smith giữ được bình tĩnh, Gédéon Spilett hơi tỏ ra lo lắng, còn Pencroff thì tức giận ngầm, cứ đi lui đi tới trên tảng đá. Harbert không rời viên kỹ sư, nhìn ông với ánh mắt như chờ đợi ở người bạn của mình sự giúp đỡ. Nab và Ayrton thì đành phận.
Năm ngày nữa trôi qua. Cyrus Smith và những người bạn bất hạnh của ông chỉ còn thoi thóp, bởi vì họ ăn chỉ để cần chừng khỏi bị chết đói mà thôi. Mọi người đều đã yếu sức đến mức tột cùng rồi. Harbert và Nab bắt đầu mê sảng. Họ không còn hi vọng được cứu thoát. Trên tảng đá này, cái chết khủng khiếp vì đói và khát, đang tấn công họ!
Không còn ai có thể đứng vững được và họ nằm bất động hầu như không thở nữa, không nhận biết chuyện gì xảy ra chung quanh mình. Chỉ có Ayrton thỉnh thoảng khó khăn lắm mới ngóc đầu dậy và đưa mắt nhìn ra biển khơi hoang vắng với vẻ thất vọng!
Nhưng sáng 24 tháng ba, Ayrton đã giơ cả hai tay, chỉ về một cái chấm nhỏ trong không gian vô tận của đại dương và quỳ dậy, sau đó đứng lên và vươn thẳng người ra. Anh vẫy vẫy tay như thể làm tín hiệu…
- Duncan! – anh ta khẽ nói.
- Duncan! – Cyrus Smith nhắc lại. Và giơ tay lên ông hô to: - Ôi thượng đế toàn năng! Nghĩa là, ý người như thế đó! Họ đã kịp thời cứu chúng con!
Thực vậy, Duncan đã cứu họ, chiếc tàu buồm của huân tước Glenarvan giờ đây do Robert, con trai của thuyền trưởng Grant, lái, con tàu được phái đi tìm Ayrton, đưa anh ta trở về Tổ quốc sau mười hai năm sống cô đơn trên hòn đảo hoang Tabor và đã chuộc tội lỗi của mình! Thế là những người ngụ cư đã được cứu thoát, con tàu đã chuẩn bị đưa họ về nhà.
- Thuyền trưởng Robert, – Cyrus Smith hỏi – khi ông rời khỏi đảo Tabor, không tìm thấy Ayrton ở đó, ai đã gợi ý cho ông đi thêm một trăm hải lý về phía đông bắc?
- Tôi biết về nó qua bức thư mà các ông đã để lại trên đảo Tabor.
- Qua bức thư? – Gédéon Spilett sửng sốt hỏi lại.
- Tất nhiên, qua bức thư. Nó đây. – Robert Grant trả lời và chìa tờ giấy ra, trong đó cho biết vĩ tuyến và kinh tuyến của đảo Lincoln: “Ayrton và năm người ngụ cư Mỹ hiện đang ở đó”.
- Đúng là thuyền trưởng Nemo đã viết! – Cyrus Smith nói, sau khi đọc bức thư và tin chắc rằng nó được viết bằng đúng nét chữ trên bức thư mà họ đã thấy ở khu chăn nuôi.
- Ồ, hóa ra là thế đấy! – Pencroff kêu lên – Vậy nghĩa là ông ấy đã lấy tàu của chúng ta và một mình liều mạng lái nó sang đảo Tabor!
- Các bạn của tôi, – Cyrus Smith xúc động sâu sắc nói – thuyền trưởng Nemo thực sự là ân nhân của chúng ta. Xin chúa trời nhân từ hãy thu nhận linh hồn ông vào lòng mình!”
Khi Cyrus Smith nói những lời ấy tất cả đều bỏ mũ ra và khẽ nhắc tên của thuyền trưởng một cách thành kính.
Đúng lúc ấy Ayrton bước lại gần viên kỹ sư và hỏi:
- Chúng ta để cái tráp vào đâu ạ?
Anh ta đã liều thân cứu được cái tráp ấy trong lúc thảm hoạ xảy ra và bây giờ trao nó cho viên kỹ sư.
- Ayrton! Ayrton! – Cyrus Smith xúc động kêu lên và quay về phía Robert Grant, ông nói thêm: - Thưa ông Grant, ông đã để lại trên đảo Tabor một tên tội phạm, còn bây giờ đây, trước mặt ông là một con người lương thiện, và tôi tự hào được vinh dự được bắt tay con người ấy!
Khi đó mọi người đã kể cho Robert Grant nghe lịch sử kì lạ của tình hữu ái giữa thuyền trưởng Nemo và những người khai khẩn đảo Lincoln.
Sau hai tuần lễ, những người ngụ cư đã về đến Mỹ và sung sướng thấy rằng trên quê hương họ hòa bình đã lập lại, cuộc nội chiến đã kết thúc, sự nghiệp chính nghĩa đã thắng.
Một phần lớn những của cải giữ đựng trong cái tráp do thuyền trưởng Nemo để lại cho các cư dân của đảo Lincoln đã được dùng để mua một vùng đất mênh mông ở bang Iowa. Họ đã lấy một viên ngọc trai đẹp nhất trong kho báu gửi tặng huân tước phu nhân Glenarvan, nhân danh những người đã được “Duncan” cứu sống trở về Tổ quốc an toàn.
Những người ngụ cư đã tập hợp trên vùng đất họ mới mua, tất cả những ai mà trước đây họ muốn tiếp đãi nồng hậu trên hòn đảo Lincoln, và kêu gọi họ lao động, tức là mở đường cho họ đi tới no đủ và hạnh phúc. Họ đã lập một vùng di dân lớn, đặt cho nó cái tên của hòn đảo đã biến mất dưới vực nước sâu của Thái Bình Dương. Họ cũng có sông Tạ ơn, núi Franklin, hồ nước nhỏ Grant, rừng Viễn Tây. Tóm lại, vùng di dân của họ cũng như một hòn đảo, nhưng là hòn đảo trên đất liền. Dưới sự lãnh đạo khôn khéo của viên kỹ sư và các bạn ông, vùng di dân ngày càng trù phú. Không một ai trong số những cư dân trước đây của đảo Lincoln từ giã bạn bè – họ đã thề mãi mãi sống với nhau – Nab không dời chủ của mình, Ayrton vẫn luôn sẵn sàng hi sinh bản thân mình như trước kia, Pencroff đã trở thành một người chủ trại thực sự y như chàng đã từng là một thuỷ thủ, Harbert vừa học xong chương trình đại học của mình. Dưới sự hướng dẫn của Cyrus Smith và Gédéon Spilett chàng đã sáng lập tờ báo New Lincoln Herald một tờ báo có nhiều thông tin nhất thế giới.
Cyrus Smith và các bạn của ông đã nhiều lần tiếp tại khu di dân của mình những vị khách quý như vợ chồng huân tước Glenarvan, thuyền trưởng John Mangles và vợ của ông ta là Maria Grant chị của Robert Grant, bản thân Robert Grant, thiếu tá Mac Nabbs và tất cả những ai đã tham gia những cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Grant và thuyền trưởng Nemo.
Mọi người vẫn sống trong tình hữu ái như trước và tất nhiên là hạnh phúc. Tuy nhiên, họ không bao giờ quên được hòn đảo Lincoln, họ đã sống không thiếu một thứ gì hết suốt bốn năm trời đằng đẵng, giờ đây chỉ còn sót lại một tảng đá hoa cương chơi vơi giữa sóng nước Thái Bình Dương, mộ phần của một con người siêu việt từng là thuyền trưởng Nemo.
Hết
http://truyen.fullf.net  
 

Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 -

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Yêu và hận chương 8
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 1
» Yêu và hận chương 4
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 2
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 3
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Truyện 12 chòm sao :: Lớp học văn :: Gian truyện sưu tầm :: Hòn đảo bí mật!-