Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng NhậpShop

Share
 

 Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Yubj Tran
Học sinh nhà Đất
avatar
Tổng số bài gửi : 808
Join date : 21/04/2013
Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13  Empty
Bài gửiTiêu đề: Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13    Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13  Icon_minitimeThu Apr 25, 2013 6:51 pm

Chương 11
Tác giả: Jules Verne

Không nghi ngờ gì nữa, đã thấy rõ một con tàu ở hải phận đảo Lincoln! Nhưng nó sẽ đi ngang qua hay tiến gần vào đảo? Hai ba giờ nữa, mọi việc mới rõ ràng.
Cyrus Smith và Harbert gọi ngay Spilett, Pencroff và Nab vào căn phòng lớn của Lâu đài Đá hoa cương và báo tin cho họ biết. Pencroff chộp lấy ống kính viễn vọng, vội vàng nhìn khắp chân trời và phát hiện thấy cái chấm đen ở đúng ngay nơi có vệt mờ trên tấm kính ảnh.
Harbert khiến mọi người bất ngờ.
- Có thể là “Duncan”! – chú kêu lên.
- Cần phải báo ngay cho Ayrton biết và gọi khẩn cấp anh ta về đây. – Gédéon Spilett nhận xét – Chỉ có mình anh ta mới có thể nói cho chúng ta biết chính xác, đó có phải là “Duncan” hay không.
Mọi người tán thành ý kiến của chàng nhà báo, và anh đã đến máy điện báo, gõ những từ sau:
- Hãy về ngay!
Mấy giây sau, chuông trả lời vang lên:
- Tôi đi đây! – Ayrton đáp lại.
Những người ngụ cư lại chú ý nhìn ra tàu.
Bốn giờ chiều, đúng một giờ sau khi được gọi, Ayrton có mặt ở Lâu đài Đá hoa cương.
- Tôi xin sẵn sàng chờ lệnh, thưa các ngài! – anh ta nói khi bước vào phòng.
Cyrus Smith, như mọi khi, chìa tay cho Ayrton và dẫn anh ta lại cửa sổ nói:
- Chúng tôi gọi anh, Ayrton! Có việc quan trọng. Ở khu vực vùng đảo của chúng ta vừa xuất hiện một con tàu.
Thoạt đầu Ayrton hơi tái mặt, và trong đôi mắt anh ta thoáng vẻ lo âu. Anh ta chăm chú nhìn về chân trời, nhưng không thấy gì cả.
- Hãy cầm lấy ống kính viễn vọng. – Gédéon Spilett nói – Và nhìn cho thật kỹ, Ayrton! Có thể đó là “Duncan”, trở lại vùng biển này để đón anh về Tổ quốc.
- “Duncan”! – Ayrton lẩm bẩm – Nhanh thế!
Ayrton cầm lấy ống kính viễn vọng và nhìn theo hướng Spilett chỉ dẫn. Mấy phút liền anh ta đứng bất động, lặng lẽ nhìn về phía chân trời rồi nói:
- Đúng, đó là tàu thật, nhưng không phải “Duncan”.
- Tại sao không phải “Duncan”? – Gédéon Spilett hỏi.
- Tại vì “Duncan” là một tàu buồm chạy bằng hơi nước mà con tàu này dù tôi muốn lắm cũng không phát hiện được một làn khói nhỏ trên tàu lẫn đằng sau tàu.
Vừa lúc ấy, gió thổi tung lá cờ bí ẩn của con tàu lên. Ayrton giằng lấy ống kính viễn vọng từ tay chàng thuỷ thủ vừa bỏ xuống, đưa ngay lên mắt và sau khi nhìn kỹ, anh ta kêu lên bằng một giọng nghẹn ngào:
- Cờ đen!
Quả vậy, trên cột cờ của tàu phần phật bay một mảnh vải đen, và bây giờ những người ngụ cư đã có đủ cơ sở để khẳng định đây là một con tàu rất khả nghi!
Vậy là linh cảm đã không lừa dối viên kỹ sư? Có nghĩa rằng đó là một con tàu của bọn cướp biển? Nó định vào đảo Lincoln để làm gì? Có thể, nó chọn một vùng đất không ai biết đến để làm nơi cất giữ những của báu mà bọn hải tặc đã cướp được? Hoặc là, có thể nó tìm một bến cảng lặng sóng để tránh những trận bão? Lẽ nào cái cơ nghiệp đáng yêu của những người ngụ cư trở thành tổ quỷ đê tiện, hang ổ của bọn hải tặc Thái Bình Dương?
- Không thể chậm một phút nào nữa. Cần đối phó với con tàu lạ này.
- Các bạn, – Cyrus Smith bắt đầu nói – có thể tàu này chỉ muốn quan sát đảo từ xa thôi, đoàn thuỷ thủ của nó sẽ không đổ bộ lên đảo. Ta hi vọng vào điều ấy. Dẫu thế nào thì chúng ta cũng cần phải giấu kín tất cả những gì chứng tỏ sự có mặt của chúng ta trên hòn đảo này. Đập vào mắt rõ nhất là cái cối xay gió đặt trên cao nguyên Tầm nhìn, Ayrton và Nab hãy đi tháo cánh của nó ra. Chúng ta lấy cành cây bịt các cửa sổ Lâu đài Đá hoa cương lại. Cần dập tắt hết lửa đi. Đừng để lộ ra ngoài sự có mặt của con người trên hòn đảo này!
- Còn chiếc tàu của chúng ta? – Harbert hỏi.
- Không sao đâu! – Pencroff trả lời – Nó đã được giấu kín ở cảng Khí cầu. Tôi đảm bảo rằng bọn giết người cướp của này không thấy được nó đâu, em yên tâm đi.
Mệnh lệnh của viên kỹ sư được thi hành ngay. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong. Cyrus Smith hướng về phía những người ngụ cư.
- Các bạn, – ông nói, trong giọng của ông lộ sự hồi hộp – nếu những kẻ gian hùng này dám liều mạng tấn công lên đảo Lincoln thì chúng ta sẽ giáng trả chúng một đòn thật thích đáng, có phải thế không?
- Đúng thế, Cyrus! – nhà báo trả lời thay cho tất cả – Và nếu cần thì chúng tôi sẽ hi sinh chiến đấu để bảo vệ hòn đảo của chúng ta.
Viên kỹ sư chìa tay cho các bạn của mình, và mọi người nồng nhiệt đáp lại cái bắt tay của ông. Chỉ riêng Ayrton đứng lặng thinh trong góc phòng. Có thể, anh ta một kẻ phạm tội cũ, cho rằng mình không xứng đáng với cái bắt tay ấy!
Cyrus Smith hiểu điều gì đang xảy ra trong lòng Ayrton, vì vậy ông đến gần anh ta.
- Còn anh, Ayrton! – viên kỹ sư hỏi – Anh định làm gì?
- Làm tròn nghĩa vụ của mình. – Ayrton đáp.*
* * Cyrus Smith và các bạn ông đã sẵn sàng hành động, nhưng họ hết sức thận trọng.
- Chúng có đông người không? Đó là một vấn đề quan trọng. – nhà báo nói – Nếu chúng có trên một chục tên thì chúng ta cân sức, nhưng nếu chúng có bốn mươi, năm mươi tên hoặc hơn, thì…
- Thưa ngài Smith! – bỗng Ayrton lại gần kỹ sư nói – Tôi muốn yêu cầu ngài một điều. Ngài cho phép tôi…
- Cụ thể là gì, anh bạn của tôi?
- Ngài hãy cho phép tôi bơi ra tàu bọn cướp để xem quân số của đoàn thuỷ thủ.
- Nhưng, Ayrton! – viên kỹ sư phản đối – điều đó có nghĩa là anh phải liều mình đấy.
- Thế tại sao lại không, thưa ngài Smith?
- Tại vì anh hành động như vậy là còn cao hơn “làm tròn nghĩa vụ của mình” nữa.
- Thì tôi cũng cần phải làm nhiều hơn nghĩa vụ của mình nữa chứ! – Ayrton trả lời.
- Anh muốn đi ra tàu bằng thuyền à? – Gédéon Spilett hỏi.
- Không, tôi muốn bơi. Người dễ lách qua những nơi mà thuyền không qua được.
- Nhưng tôi nhắc lại là sẽ nguy hiểm cho tính mạng anh đấy. – viên kỹ sư nhận xét – Và anh biết phải bơi hơn một hải lí đó chứ?
- Thì chuyện ấy cũng đâu có sao. – Ayrton nói – Tôi xin ngài cho phép, coi đó như một ân huệ, thừa ngài Smith. Đối với tôi, có thể đây là khả năng duy nhất để lấy lại cho mình lòng tự trọng.
- Thôi được, anh hãy đi đi, Ayrton! – viên kỹ sư nói. Ông hiểu rằng sự từ chối của ông sẽ làm cho kẻ tội phạm đã trở thành người lương thiện đau khổ vô cùng.
- Tôi sẽ đi cùng với anh! – bỗng Pencroff đề nghị.
Chiếc thuyền nhanh chóng cập vào đảo nhỏ, Pencroff nấp vào giữa các vách đá đợi bạn trở về. Trong khi đó Ayrton nhẹ nhàng, thận trọng bơi về phía chiếc tàu. Nửa giờ sau, anh ta tóm được dây cột buồm và leo lên tàu an toàn. Gặp chỗ phơi quần áo của thuỷ thủ anh xỏ luôn một cái và lựa tư thế thuận tiện anh chăm chú theo dõi.
Bọn trên tàu chưa ngủ. Ayrton nghe rõ tiếng chúng hát, hò, cười cợt ầm ĩ. Bỗng mấy lời ngắt quãng lẫn với những tiếng chửi tục đã thu hút sự chú ý của Ayrton.
- Cánh ta kiếm được chiếc tàu thật là tuyệt.
- Ừ, nó chạy không đến nỗi tồi. Gọi nó là tàu “Nhanh” cũng chẳng phải quá đáng!
- Thách cả hạm đội Norfolk đuổi coi!
- Thuyền trưởng Bob Harvey muôn năm!
Ayrton nhớ lại chẳng khó gì cái tên Bob Harvey. Chính hắn đã từng là kẻ đồng loã với anh ta từ hồi ở Australia. Đó là một tên liều lĩnh, bạt mạng. Bọn Harvey đã chiếm đoạt con tàu này ở vùng đảo gần biển Norfolk cùng với toàn bộ hàng hoá, vũ khí, đạn dược, dụng cụ, đồ dùng chuẩn bị chở đến một trong những đảo thuộc Sandwich. Đoàn thuỷ thủ hiện nay của hắn đều là những tên tù khổ sai người Anh vượt ngục ở Norfolk.
Khoảng một giờ sau, khi quá nửa bọn cướp đã ngủ, Ayrton không do dự đột nhập lên boong tàu lúc ấy đèn đã tắt và trời tối như bưng. Anh thận trọng luồn lách giữa bọn cướp, anh đi khắp tàu và xác định được rằng tàu “Nhanh” có bốn khẩu đại bác hiện đại, sử dụng rất thuận tiện và có sức công phá mạnh. Bây giờ Ayrton có thể trở về với một lương tâm trong sáng nhờ hoàn thành công việc trinh sát. Nhưng, một ý nghĩ dũng cảm bỗng thoáng qua đầu Ayrton – anh đã nói với viên kỹ sư rằng anh sẽ làm tròn nghĩa vụ, đúng hơn anh sẽ làm nhiều hơn mức nghĩa vụ đòi hỏi. Phải, anh sẽ hi sinh cuộc đời mình, nhưng hòn đảo và những người ngụ cư phải được cứu thoát.
Ayrton không lưỡng lự nữa. Anh tìm đến kho thuốc súng thường được bố trí ở đuôi tàu chẳng khó khăn gì. Trên một chiếc tàu cướp biển nhất định phải có lượng thuốc súng dự trữ và chỉ cần một tia lửa là đủ làm cho nó nổ tung trong nháy mắt.
Ayrton thận trọng đi xuống căn phòng nối liền với boong tàu, nơi mà bọn cướp biển say rượu nằm li bì. Gần cột buồm chính có ngọn đèn sáng, còn chung quanh là giá để gác các loại vũ khí.
Ayrton lấy một khẩu súng lục, biết chắc chắn là nó đã được nạp đạn. Bây giờ anh có thể thực hiện được kế hoạch huỷ diệt chiếc tàu, và lặng lẽ bò tới đuôi tàu, ở đó, ngay bên phải buồng lái là kho thuốc súng.
Chỉ còn việc phá cửa ra vào, và Ayrton đã cố nhẹ tay không gây lên tiếng động, nhưng hoàn thành việc đó đâu phải dễ dàng, bởi vì anh còn phải bẻ chiếc khoá treo. Tuy nhiên, với đôi tay hùng mạnh của Ayrton chiếc kháo cũng phải khuất phục, và cánh cửa bật mở.
Đúng lúc ấy, một cánh tay nặng nề hạ xuống vai Ayrton.
- Anh làm gì ở đây, hả anh bạn tử tế? – một giọng nói thô bạo phát ra ngay bên tai Ayrton, và một người to lớn cầm cây đèn pin rọi thẳng vào mặt anh.
Bất giác Ayrton lùi lại trước ánh đèn loé sáng. Anh nhận ra đó là tên đồng bọn của mình ngày trước, hắn chính là Bob Harvey. Nhưng Harvey không nhận ra anh, vì hắn tưởng anh đã chết từ lâu rồi.
- Mày làm gì ở đây? – Bob Harvey nhắc lại, túm lấy lưng quần Ayrton.
Ayrton không trả lời, hất mạnh tên đầu sỏ ra. Ayrton lao về phía câu thang dẫn lên boong tàu. Lúc chạy qua chiếc đèn Ayrton dùng báng súng đập vỡ nó đi, boong tàu lại chìm ngập trong bóng đêm, giúp cho việc chạy trốn của anh đỡ khó khăn hơn rất nhiều.
Sau đó, Ayrton nhảy qua mạn tàu và lao xuống biển. Anh bơi chưa được chục mét, một trận mưa đạn đã trút xuống anh, làn nước réo sôi sùng sục.
Pencroff, Cyrus Smith, nhà báo, Harbert và Nab đã trải qua biết bao xúc động khi nghe những tiếng súng vẳng đến tai họ! Họ chụp vũ khí, lao ra bờ, sẵn sàng tinh thần đẩy lùi quân thù.
Họ không hề có chút ảo tưởng nào, Ayrton rõ ràng đã bị sa vào tay bọn cướp và, lẽ dĩ nhiên, đã vĩnh biệt cuộc đời rồi. Có thể là bọn cướp biển đã quyết định lợi dụng ban đêm và sắp sửa đổ bộ lên bờ.
Cuối cùng, vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm, con thuyền đã cập bến, trên đó có hai người ngồi. Những người ngụ cư dang rộng vòng tay ôm chặt Ayrton đang bị thương nhẹ ở vai, và Pencroff vẫn sống và nguyên vẹn.*
* * Đêm ấy trôi qua không có biến cố gì. Hòn đảo vẫn êm đềm, tưởng chừng như chiếc tàu cướp biển đã nhổ neo ra khơi.
Nhưng sáng hôm sau, sự việc hoàn toàn ngược lại, qua làn sương ban mai, những người ngụ cư nhìn kỹ vẫn thấy bóng dáng mờ mờ của tàu “Nhanh”.
- Các bạn! Cần chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Trước hết phải gây cho bọn cướp ấn tượng là đảo có đông dân và những người dân ở đây biết giáng trả kẻ thù bằng những đòn đích đáng. Bởi vậy, tôi dự kiến lập ba tổ chiến đấu ở ba nơi. Chúng ta đủ súng đạn để đương đầu với chúng. Chỉ cần các bạn bắn liên tục, nhưng phải trúng đích. Mỗi người phải tiêu diệt tám hoặc mười tên trong bọn chúng.
Các vị trí được xếp đặt như sau: Cyrus Smith cùng với Harbert ở lại Hang ngụ cư. Mai phục ở đây họ có thể bắn và khống chế được một phần đáng kể bọn cướp đổ bộ vào khu vực bờ biển dưới chân Lâu đài Đá hoa cương.
Gédéon Spilett cùng với Nab, núp trong các vách đá gần cửa sông Tạ ơn. Tại đây, các loại cầu lớn nhỏ đều được nâng lên. Tổ này đảm bảo không những không cho một chiếc xuồng địch nào vào đảo, mà còn phải ngăn chặn bọn cướp đổ bộ lên bờ bên kia.
Riêng Pencroff cùng với Ayrton trong thời gian đó đã kịp hạ chiếc thuyền xuống nước để bơi sang hòn đảo nhỏ. Tại đây, họ phải chiếm lĩnh hai vị trí cách xa nhau. Khi thấy bị bắn từ bốn phía, bọn cướp sẽ cho rằng đảo có nhiều người và những người trên đảo quyên tâm bảo vệ tự do của mình.
Khi cần thì Pencroff và Ayrton sẽ đánh ngược về, và lập tức tăng cường viện trợ cho khu vực bị đe doạ nhiều nhất.
Trước khi bước vào vị trí chiến đấu những người ngụ cư siết chặt tay nhau lần cuối cùng.
Chăng bao lâu sương mù tan hết và chiếc tàu “Nhanh” hiện rõ dưới ánh mặt trời. Nó nhả hai neo, mũi quay về phía Bắc, mạn trái quay về đảo và tiếp tục im lặng.
Nhưng tám giờ sáng, những người trên đảo nhận thấy trên tàu “Nhanh” có dấu hiệu hoạt động. Các thuỷ thủ dùng palăng hạ một chiếc xuồng xuống nước. Bảy tên ngồi trên đó, tên nào cũng có súng. Một tên ngồi lái, bốn tên chèo, còn hai tên ngồi phía mũi. Chúng khom lưng, tay lăm lăm súng và chăm chú nhìn lên bờ. Nhiệm vụ của chúng rõ ràng là trinh sát đảo, chứ không phải đổ bộ, vì nếu làm như vậy thì tên thuyền trưởng phải phái một đoàn quân đông hơn…
Pencroff và Ayrton từ vị trí quan sát kín đáo của mình trông thấy chiếc xuồng hướng thẳng đến chỗ họ, và họ đợi cho nó đến vừa tầm súng.
Mấy tên chèo xuồng thận trọng di chuyển về phía trước, cố không gây sự chú ý của những người trên đảo. Ayrton thấy rõ một tên cướp ngồi ở mũi xuồng, tay cầm dụng cụ đo độ sâu và định tìm luồng lạch của dòng chảy sông Tạ ơn. Điều đó chứng tỏ rằng tên Bob Harvey muốn đưa tàu của hắn vào gần bờ hơn. Cách đảo nhỏ chưa tới hai cabeltov chiếc xuồng dừng lại. Tên cầm lái đứng thẳng người lên đưa mắt tìm nơi cập bến.
Đúng lúc ấy vang lên hai phát súng. Một làn khói trắng bốc lên trên các mỏm đá. Tên cầm lái và tên thuỷ thủ cầm dụng cụ đo độ sâu đổ xuống đáy xuồng. Những viên đạn do Ayrton và Pencroff bắn cùng một lúc giết chết hai tên cướp biển.
Hầu như ngay lúc ấy vang lên tiếng động khủng khiếp, một cột khói bốc cao trên tàu và một viên đại bác đập vào vách đá nơi mà dưới đó Ayrton và Pencroff đang ẩn nấp. Các mảnh đá văng ra tứ phía nhưng, may sao, các xạ thủ của chúng ta vẫn còn nguyên vẹn…
Một thuỷ thủ khác ngồi thay vào chỗ lái và chiếc xuồng bơi dọc theo bờ, định vòng qua đảo nhỏ ở phía Nam. Chúng cố sức chèo xa tầm dạn. Mặc dù Pencroff và Ayrton thừa biết bọn cướp định tập hậu họ, nhưng họ không rời vị trí chiến đấu, vì không muốn để lộ mục tiêu cho khẩu đại bác của giặc. Mặt khác, họ tin tưởng các bạn của họ bảo vệ được chỗ của mình.
Khoảng hai mươi phút, sau những phát súng đầu tiên, chiếc xuồng bơi về phía cửa sông Tạ ơn được ít nhất hai cabeltov. Vào giờ ấy thuỷ triều bắt đầu lên mạnh vì nơi đây lòng sông hẹp. Nhưng, khi bọn cướp vừa vào đúng tầm súng của trận địa phía cửa sông, chúng bị hai viên đạn phóng tới đón chào. Thế là thêm hai tên cướp nữa bỏ mạng. Nab và Spilett đã bắn rất chính xác.
Bây giờ trên xuồng chỉ còn lại ba tên cướp có khả năng chiến đấu. Xuồng bị dòng thuỷ triều cuốn mạnh nên lướt nhanh khỏi tầm đạn của Cyrus Smith và Harbert. Lát sau đó, nó vòng qua phía bắc đảo và trở lại tàu.
Sau thất bại đầu tiên, bây giờ bọn cướp cho tung ra hai chiếc xuồng khác, một xuồng chở 12 tên đổ bộ vào bờ đảo nhỏ, xuồng kia chở 8 tên định đột nhập vào cửa sông Tạ ơn. Tình hình của Pencroff và Ayrton trở nên hết sức hiểm nghèo, họ hiểu rằng đã đến lúc phải quay trở lại đảo lớn.
Song họ quyết định để cho chiếc xuồng thứ nhất lại gần, nổ hai phát súng làm tiêu hao thêm sinh lực địch, rồi mới lên thuyền của mình bơi qua eo biển, vào nấp trong Hang ngụ cư.
Họ vừa kịp nhập bọn với Cyrus Smith và Harbert thì bọn cướp biển trên xuồng thứ nhất đổ bộ lên bờ đảo nhỏ và bắt đầu sục sạo trên đó. Gần như cùng một lúc vang lên hai phát súng ở cửa sông Tạ ơn, nơi chiếc xuồng thứ hai lao tới rất nhanh. Hai trong số tám tên cướp đã bị Gédéon Spilett và Nab tiêu diệt. Chiếc xuồng đã bị thuỷ triều cuốn xô vào đá ngầm ngay cửa sông và vỡ tan. Sáu tên còn lại giơ cao súng lên đầu cho khỏi ướt và lội sang bờ sông phía bên phải, nhưng sợ bị làm bia đỡ đạn, nên chúng ba chân bốn cẳng chạy ngay về hướng mũi Tìm thấy.
Tình hình bây giờ chưa hẳn đã nguy ngập, trên đảo nhỏ có mười hai tên cướp, một số tên trong đó đã bị thương, nhưng chúng lại có xuồng, còn sáu tên khác đổ bộ lên đảo lớn, nhưng chưa tiến đến Lâu đài Đá hoa cương được, vì chúng bị sông cản đường, còn tất cả các cầu đều bị rút đi.
- Chúng ta sẽ đứng vững được phải không thưa kỹ sư? – Pencroff vừa chạy vào Hang ngụ cư đã hỏi ngay Cyrus Smith.
- Theo tôi, – viên kỹ sư trả lời – cuộc chiến đấu nhất định sẽ bước sang giai đoạn mới, sẽ là vô lí nếu cho rằng bọn cướp biển là những tên ngu ngốc nào đó cứ đổ bộ quân lên bờ trong điều kiện bất lợi như thế đối với chúng. Biết đâu, con tàu sẽ vào gần bờ.
Trong khi ấy, toán cướp biển chiếm được đảo nhỏ đã đã dần dần lội tới bờ đảo trước mặt. Bây giờ chúng chỉ còn cách cái eo biển nữa là tới đảo lớn. Bỗng hai khẩu cacbin của Ayrton va Spilett cùng lên tiếng một lúc. Chắc chắn là ngôn ngữ của họ đã khiến hai tên tội phạm té nhào.
- Các ông ạ! – Ayrton nói, tay nạp đạn vào khẩu cacbin – Tình hình phức tạp rồi, tàu đang nhổ neo.
- Đúng, chúng đang nhổ neo! – Pencroff kêu lên.
- Nó đã bắt đầu chạy! – viên kỹ sư lo lắng.
Thật vậy, trên tàu bọn cướp biển đã kéo buồm lên, và con tàu tiến gần vào đảo.
Cyrus Smith hiểu rõ hiểm hoạ thật là lớn lao, cố vắt óc suy nghĩ để tìm ra một lối thoát trong tình thế hiểm nghèo này. Chỉ còn vài phút nữa thôi, dẫu sao thì ông cũng phải có một quyết định. Nhưng quyết định như thế nào đây? Trước mắt vào trú trong Lâu đài Đá hoa cương đang bị bọn cướp biển bao vây, cầm cự một tuần, một tháng, mà cũng có thể vài tháng, vì lương thực dự trữ thừa đủ.
Trong khi đó, chiếc tàu đã tiến gần đảo nhỏ, có lẽ bọn cướp biển định đổ bộ lên phía nam hòn đảo.
Không thể bỏ lỡ một phút nào nữa, những người ngụ cư lách ra khỏi Hang ngụ cư.
Trong chốc lát họ đã đến chỗ thang máy và lên tới cửa Lâu đài Đá hoa cương. Tại đây, Top và Jup đã bị nhốt trong phòng lớn từ tối hôm qua. Những người ngụ cư hi vọng rằng Lâu đài Đá hoa cương sẽ nguyên vẹn, bởi vì để đề phòng, Cyrus Smith đã ra lệnh phủ kín các cửa sổ bằng cành cây xanh, nhưng bỗng nhiên một quả đạn xé toang cửa ra vào và bay qua hành lang.
Có thể bọn cướp biển không nhìn thấy những người ngụ cư, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, Bob Harvey cho rằng cần kịp thời nhả đạn vào bức màn cây xanh nổi bật lên một cách đáng ngờ trên tường đá. Cuộc pháo kích Lâu đài Đá hoa cương đã đã tiếp diễn với mức độ điên cuồng gấp đôi, và chẳng mấy chốc lại thêm một quả đạn nữa xé tan những cành xanh, để lộ một cái lỗ toang hoác trên khối đá hoa cương.
Tình cảnh của những người ngụ cư trở nên tuyệt vọng. Nơi trú ẩn của họ đã bị lộ. Mà họ thì không thể dựng lên những bức tường ngăn chặn đại bác, thậm chí họ không tránh nổi những mảnh đá hoa cương bay xối xả quanh họ. Chỉ có một cách là ẩn núp ở hành lang thượng của Lâu đài Đá hoa cương, rồi tìm cách rời khỏi nơi ở của mình, phó mặc tính mạng và hòn đảo cho số phận.
Bỗng từ phía biển, một tiếng “Ầm” vang lên và tiếp theo đó là những tiếng kêu tuyệt vọng của bọn cướp.
Cyrus Smith và những người bạn của ông ta lao đến cửa sổ. Một cột nước lớn giống như một vòi rồng với sức mạnh chưa từng thấy đã nhấc bổng con tàu bị vỡ làm đôi lên, và độ mười giây sau, những đợt sóng đã nuốt chửng con tàu và đoàn thuỷ thủ.

Chương 12
Tác giả: Jules Verne

- Chúng đã bị tan xác! – Harbert thốt lên.
- Đúng vậy! Chúng đã bị nổ tung, y như là Ayrton đã đốt kho thuốc súng của chúng vậy! – Pencroff khẳng định, đồng thời cùng với Nab và cậu bé Harbert lao đến chỗ thang máy.
- Thủng thẳng rồi chúng ta sẽ biết, còn bây giờ hãy đi đã. Điều chủ yếu là bọn cướp biển không còn nữa.
Cyrus Smith vội vã kéo nhà báo và Ayrton đi ra bờ biển, tại đây Pencroff, Nab và Harbert đang chờ họ.
Sóng biển đã nuốt gọn con tàu, thậm chí các cột buồm cũng không thấy đâu. Con nước xoáy đã nhấc bổng con tàu lên, lật nó nằm nghiêng, và cứ thế nó chìm nghỉm. Nước đã ùa vào lỗ thủng thân tàu.
Trên mặt nước, những mảnh tàu vỡ cứ xoáy tròn – nguyên bộ cột buồm và trục buồm dự trữ, các chuồng gà (những tù nhân có cánh này vẫn còn sống), các hòm và thùng phuy đựng công cụ bị áp lực của nước tống qua các cửa rơi xuống biển và dần dần nổi trên mặt nước. Ayrton cùng Pencroff đã lao xuống thuyền, lùa bộ cột buồm còn nguyên vẹn và tất cả những gì nổi trên mặt nước, vào đảo lớn và đảo Cứu thoát.
Cùng với các mảnh tàu vỡ có vài xác người nổi lên. Trong số đó Ayrton nhận ra Bob Harvey. Anh chỉ cho Pencroff thấy tên cướp biển và xúc động nói:
- Tôi cũng từng là người như thế đó, Pencroff ạ!
- Nhưng bây giờ anh hoàn toàn khác rồi, Ayrton đáng yêu của chúng tôi! – chàng thuỷ thủ thốt lên.
Khi những mảnh tàu bị đắm đã được vớt từ dưới nước lên và xếp vào một chỗ an toàn trên bờ, những người ngụ cư quyết định nghỉ ngơi và ăn sáng.
- Đúng là kì diệu, – Pencroff khẳng định – phải thừa nhận là bọn ác ôn đã bị tan xác rất đúng lúc! Lâu đài Đá hoa cương đã trở lên trống trải lắm rồi.
- Thưa ngài Cyrus, ngài biết không, – Harbert bắt đầu nói – có điều này làm cháu hết sức ngạc nhiên: Tại sao vụ nổ không gây ra những phá hoại lớn? Tiếng nổ không mạnh lắm, và chỉ có lớp vỏ bọc tàu bị hư hại thôi. Quả thật, có thể nghĩ rằng chiếc tàu bị đắm đúng hơn là bị nổ.
- Cả tôi cũng thấy thế, Harbert ạ! – viên kĩ sư trả lời – Điều ấy cũng làm tôi rất ngạc nhiên. Hãy đợi đã, sau khi xem xét thân tàu, tất nhiên chúng ta sẽ rõ sự việc như thế nào.
Độ một giờ rưỡi chiều, những người ngụ cư ngồi vào xuồng và bơi ra chỗ tàu đắm. Vừa lúc ấy, thân tàu “Nhanh” bắt đầu nổi lên khỏi mặt nước. Những người ngụ cư đi vòng quanh thân tàu rồi chui vào bên trong tàu, lần tới đằng lái, nơi trước đây là tầng trên. Theo lời của Ayrton thì phải tìm kho thuốc nổ ở chỗ này đây. Cyrus Smith hi vọng rằng nó không bị nổ. Và do đó, vài thùng thuốc súng còn nguyên vẹn, vì thuốc súng thường được bảo quản trong bao bì bằng kim loại, nên chắc chắn nó không bị ướt.
Những giả định của viên kĩ sư đúng hoàn toàn. Trong số rất nhiều đạn đại bác, những người ngụ cư đã phát hiện được khoảng hai chục thùng thuốc súng bọc bằng những lá đồng… Pencroff đã tận mắt nhìn thấy và tìn chắc rằng tàu “Nhanh” bị diệt không phải do kho thuốc tự nổ. Chính phần trên tàu, nơi để thuốc súng lại ít bị hư hại hơn những phần khác.
Mải xem xét tàu, những người ngụ cư không để ý mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua và thuỷ triều bắt đầu lên. Đành phải ngưng các công việc lại. Tuy nhiên, chẳng có gì phải sợ sóng cuốn mất sườn tàu ra khơi, vì tàu đã mắc cạn và được giữ chắc chắn bằng tất cả số neo của nó.
Đã năm giờ chiều. Những người ngụ cư trải qua một ngày vất vả. Họ ăn bữa trưa thật ngon miệng, và mặc dù rã rời chân tay, họ vẫn không thể cưỡng lại được sự quyến rũ là tìm hiểu những đồ chứa trong các thùng được tìm thấy trong các hầm tàu “Nhanh”.
Phần lớn các thùng đều có quần áo may sẵn, giày dép đủ cỡ, nhiều đến mức thừa dùng cho cả một vùng di dân. Ngoài ra còn có những thùng rượu, thuốc lá, vũ khí, dụng cụ nông nghiệp, đồ dùng cho thợ mộc, thợ nề và thợ rèn, các bao hạt giống gieo trồng đủ loại.
Họ lấy những thứ cần thiết trên tàu mang về đảo. Bây giờ họ mới nhớ là trên đảo còn sáu tên cướp sống sót đang quanh quẩn đâu đó và những vị khách không mời mà đến này rất bất trị. Do đó, họ phải hết sức cẩn thận đề phòng.
Sau tai nạn một tuần, đúng hơn là sau vụ nổ tàu bí ẩn đã cứu sống những người ngụ cư, thậm chí khi nước ròng cũng không thể phát hiện ra dấu vết của tàu “Nhanh”. Những mảnh vỡ cuối cùng của nó đã bị cuốn ra khơi, còn hàng thì làm giàu cho các kho tàng của Lâu đài Đá hoa cương.
Song, tình huống tàu bị diệt quá ư đột ngột và lạ lùng vẫn còn là vấn đề bí mật, nếu như ngày 10 tháng mười, trong khi đi dạo trên bờ biển, Nab không tìm thấy mảnh một ống kim loại còn giữ lại dấu vết của vụ nổ. Chiếc ống ấy bị xoắn và vỡ ở hai bên cạnh.
Cyrus Smith chăm chú xem xét ống, sau đó quay sang Pencroff nói:
- Tàu đụng phải cục sắt này nên nó bị chìm. – viên kỹ sư đưa cho Pencroff xem phần còn lại của ống kim loại.
- Đụng phải cái ống nhỏ này ư? – chàng thuỷ thủ thốt lên, thậm chí không che giấu sự nghi hoặc.
- Các bạn! – Cyrus Smith nói với những người ngụ cư – Tôi hi vọng các bạn nhớ rằng, trước khi chìm, chiếc tàu buồm đã bị nhấc bổng lên bởi lực đẩy của cột nước lớn?
- Tất nhiên là nhớ ạ, thưa ngài Cyrus! – Harbert vội đáp lời.
- Các bạn chưa biết cột nước ấy do cái này mà ra. – và viên kỹ sư chìa cho mọi người xem mảnh ống bị hỏng.
- Do cái này ư? – Pencroff hỏi.
- Đúng! Đó là phần còn lại của một quả thuỷ lôi.
- Thuỷ lôi! – những người ngụ cư đồng thanh thốt lên.
- Thế ai đã đặt quả thuỷ lôi ấy? – Pencroff hỏi.
- Tôi chỉ có thể khẳng định một điều là không phải tôi! – Cyrus Smith trả lời – Nhưng sự thật đã rành rành, có ai đó đã đặt quả thuỷ lôi và tự các bạn hình dung được sức công phá của nó.*
* * Thế là mọi biến cố được giải thích bởi tiếng nổ của quả thuỷ lôi, Cyrus Smith không thể lầm được. Trong thời kì nội chiến ở Mỹ, ông đã nhiều lần chứng kiến tác dụng của loại vũ khí phá hoại kinh khủng này.
Phải, mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, trừ một tình huống. Ở đâu xuất hiện quả thuỷ lôi ấy?
- Các bạn! – Cyrus Smith lên tiếng – Bây giờ khỏi phải nghi ngờ gì nữa, trên đảo có một người bí ẩn nào đó, có thể, cũng như chúng ta, người ấy là nạn nhân của một vụ đắm tàu. Tôi nói điều ấy cốt để cho Ayrton làm quen với những sự kiện huyền bí xảy ra ở đây trong hai năm qua. Ân nhân bí ẩn ấy đã từng nhiều lần cứu giúp chúng ta. Nhưng nhân vật ấy là ai thì tôi không làm sao biết được. Vì những lí do gì ông ta hành động và tại sao ông ta lại tránh chúng ta, điều ấy tôi cũng không thể hiểu nổi. Ayrton chịu ơn người đó với mức độ cũng ngang như tất cả chúng ta. Ân nhân ấy đã cứu tôi thoát khỏi những đợt sóng biển sau khi quả khí cầu bị tai nạn hất tôi xuống biển, cũng lại chính ông ta đã viết lá thư, bỏ vào chai thả xuống eo biển và bằng cách ấy báo cho chúng ta biết tình trạng nguy khốn của Ayrton. Tôi nói thêm rằng, chính ông ta đã kịp thời thả lên mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng tất cả những dụng cụ mà chúng ta đặc biệt cần thiết; chính ông ta đã đốt lửa trên đỉnh núi để các bạn có thể về đến đảo, chính ông ta đã bắn con lợn rừng, và viên đạn chì từ súng của ông ấy bắn ra chúng ta đã tìm thấy trên mình con vật bị chúng ta giết; chính ông ta đã đặt quả thuỷ lôi trong eo biển để phá chiếc tàu của bọn hải tặc. Tóm lại, chúng ta chịu ơn con người bí ẩn ấy về tất cả những nghĩa cử cao thượng và ân huệ không giải thích nổi và không sao hiểu được.
- Cyrus thân mến, ngài hoàn toàn có lí! – Gédéon Spilett đáp lời – Vâng, ngài đã nói rất có lí rằng ở đâu đây trên đảo này có một người bí ẩn có sức mạnh hầu như siêu nhân và bấy lâu nay đã giúp ích chúng ta… Có thể là ông ấy bí mật theo dõi chúng ta qua cái giếng của Lâu đài Đá hoa cương và nhờ đó biết được mọi kế hoạch của chúng ta.
Những người có mặt không thể không đồng ý với ý kiến của nhà báo.
- Hoàn toàn đúng! – Cyrus Smith tiếp lời – không ai trong chúng ta nghi ngờ về sự tồn tại của một cư dân bí ẩn trên đảo. Tôi thừa nhận rằng ông ta có những phương tiện mà tạm thời con người chưa biết tới. Đây, lại thêm một điều bí ẩn nữa. Tiếp tục tôn trọng sự ẩn danh của con người độ lượng ấy, hay làm tất cả những gì có thể làm được để tìm ông ta. Tôi muốn biết ý kiến của các bạn về vấn đề này.
- Theo con, thưa ông chủ! – Nab thốt lên – Chúng ta có tìm hay không tìm con người ấy – điều đó không quan trọng. Khi cần tự bản thân ông ta sẽ lộ diện, chúng ta chẳng cần tìm ông ta làm gì.
- Nói rất hay, Nab! – Pencroff khen.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với Nab! – Gédéon Spilett bắt đầu – Nhưng đó là cái cớ chưa đủ xác đáng để từ bỏ cuộc tìm kiếm. Chúng ta có tìm thấy hay không tìm thấy thì ít nhất chúng ta phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với ông ta.
- Còn cháu, chú bạn nhỏ, cháu có ý kiến gì không? – viên kỹ sư hỏi Harbert.
- Ôi! – Harbert kêu lên, mắt sáng rực – Cháu muốn được tạ ơn ông ấy đầu tiên là đã cứu ngài, thưa ngài Cyrus, còn sau đó thì cứu tất cả chúng ta!
- Nghĩ khá đấy, em trai bé bỏng ạ! – Pencroff đáp lại – Mọi người biết đó, tôi không có thói tò mò quá đáng, nhưng dẫu sao cũng sẵn sàng chịu mất một con mắt để được nhìn thấy con người kì diệu ấy.
- Còn ý kiến của anh thế nào, Ayrton? – viên kỹ sư hỏi.
- Thưa ngài Smith, tôi không biết nói gì nữa. Ngài đã quyết định điều gì thì mọi việc đều sẽ đúng và tốt cả. Nếu như ngài muốn tôi tham gia vào các cuộc tìm kiếm thì tôi sẽ không chậm trễ đi theo ngài.
- Rất cảm ơn anh, Ayrton. – Cyrus Smith trả lời – nhưng tôi lại muốn nhận được ở anh một câu trả lời thẳng thắn hơn. Anh là một người bạn, anh có đầy đủ quyền hạn như chúng tôi. Vì vậy, anh hãy nói cho chúng tôi biết anh nghĩ gì về việc này?
- Thưa ngài Smith, tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm làm tất cả những gì có thể làm để tìm ra ân nhân bí ẩn của chúng ta. – Ayrton trả lời – Có thể ông ấy đang bị giày vò trong cô đơn. Có thể ông ấy đang đau khổ. Có thể, với sự giúp đỡ của chúng ta, ông ấy sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Chính ngài vừa nói rằng tôi là người mắc nợ ông ấy. Đúng là ông ấy, tất nhiên là ông ấy chứ không phải ai khác, đã đến thăm đảo Tabor, phát hiện thấy có một người bất hạnh đang đau khổ và đã báo cho các ngài biết cần phải cứu con người ấy. Nghĩa là, nhờ ơn của ông ấy mà tôi tìm lại được hình hài và diện mạo con người. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.
- Thôi được rồi, vậy là đã quyết định xong. – Cyrus Smith nói – Chúng ta sẽ bắt đầu những cuộc tìm kiếm càng nhanh càng tốt. Chúng ta khảo sát toàn bộ đảo, xem xét từng xó xỉnh. Chúng ta lục hết mọi chỗ khuất kín và mong người bạn chưa quen biết ấy tha thứ cho chúng ta về sự khiếm nhã này.*
* * Trước khi bắt đầu cuộc hành trình khảo sát đảo, những người ngụ cư quyết định bỏ ra mười ngày làm nốt một số công việc trên cao nguyên Tầm nhìn.
Song, Ayrton phải trở lại khu chăn nuôi, bởi vì gia súc cần được trông nom và săn sóc. Họ quy ước với nhau là anh ta sẽ ở đó vài ngày và trở về Lâu đài Đá hoa cương sau khi cho gia súc thật nhiều thức ăn.
Thế là Ayrton ra đi lúc sáng sớm ngày 9 tháng mười bằng chiếc xe do hai con la kéo, hai giờ sau anh ta đánh điện báo cho mọi người biết ở khu chăn nuôi mọi việc bình thường.
Ngay buổi chiều hôm đó Ayrton nhận được bức điện với yêu cầu mang hai con dê ở bãi chăn nuôi về. Nab muốn luyện cho chúng thích nghi với đồng cỏ của cao nguyên. Nhưng, thật là lạ, trái với mọi khi, Ayrton không tiếp nhận điện. Viên kỹ sư ngạc nhiên. Đúng là lúc ấy Ayrton không có mặt ở khu chăn nuôi, có lẽ anh ta đang trên đường về Lâu đài Đá hoa cương.
Lúc ấy gần một giờ tối, vẫn chưa thấy Ayrton đâu cả. Khi ấy mọi người quyết định gởi bức điện thứ hai và yêu cầu trả lời gấp.
Nhưng chuông ở Lâu đài Đá hoa cương lại im lặng. Những người ngụ cư lo lắng nhìn nhau.
Nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra, một số nằng nặc đòi đi ngay, những người khác nói đợi đến sáng mai thì tốt hơn.
Họ đã quyết định đợi đến sáng, nhưng nỗi lo âu của những người ngụ cư cứ tăng lên.
Lúc trời hừng sáng, Cyrus Smith lại cho máy điện báo hoạt động, nhưng vẫn không nhận được tín hiệu trả lời của Ayrton. Ông gọi lần nữa, chuông vẫn im lặng.
- Ra khu chăn nuôi mau! – ông kêu lên.
- Mang theo vũ khí! – Pencroff nói thêm.
Họ để lại Nab ở Lâu đài Đá hoa cương, vì họ thấy không thể bỏ mặc chỗ ở mà không có người trông coi được. Nab tiễn những người ngụ cư đến cuối Glixerin, nâng cầu lên và nép vào sau các gốc cây đợi họ hoặc Ayrton trở về.
Trong trường hợp bọn cướp biển xuất hiện và mưu toan đột nhập cao nguyên Tầm nhìn, anh ta sẽ nổ súng kìm chân chúng, cùng lắm thì anh ta sẽ ẩn náu trong Lâu đài Đá hoa cương và cất thang dây lên – ở trong pháo đài bất khả xâm phạm này anh ta chẳng phải sợ gì hết. Xuống khỏi cao nguyên Tầm nhìn, những người khai khẩn hướng thẳng tới khu chăn nuôi. Họ cầm chắc súng trong tay, sẵn sàng nhả đạn ngay khi có tiếng động khả nghi đầu tiên. Trang bị của họ gồm hai khẩu cacbin và hai khẩu súng săn đã nạp đạn… Tuy nhiên, một lát sau viên kỹ sư phát hiện thấy đường dây điện hơi bị chùng, khi họ đến cột số bảy mươi bốn thì Harbert đi trước bỗng dừng lại và kêu to:
- Dây điện bị cắt đứt!
Những người cùng đi với chú rảo bước nhanh hơn và một lát sau họ đã nhập vào với Harbert.
- Mới bị đứt phải không? – Cyrus Smith hỏi.
- Vâng! – Harbert khẳng định – Còn trụ điện thì bị quật đổ.
- Ra khu chăn nuôi mau! – mọi người đồng thanh kêu to và rảo bước.
Cuối cùng họ đã đến nơi. Mọi người chậm bước để thở lấy hơi và nếu cần thì có thêm sức lực mới xông vào chiến đấu. Súng đã được lên đạn. Mỗi người theo dõi một khu rừng nhất định. Con Top khẽ gầm gừ không báo hiệu điều gì tốt lành.
Từ sau những hàng cây họ đã nhìn thấy hàng rào của khu chăn nuôi. Thoạt trông thì nó còn nguyên vẹn. Cổng vẫn khoá như mọi khi. Đằng sau đó, hoàn toàn im ắng, không nghe tiếng be của dê rừng, tiếng quát tháo nghiêm khắc của Ayrton.
- Ta vào đi! – Cyrus Smith nói.
Viên kỹ sư bước đến chỗ hàng rào, còn các bạn của ông thì đứng cảnh giới cách đó hai mươi bước và sẵn sàng nổ súng.
Cyrus Smith nâng chốt cổng lên và định mở cánh cổng ra, bỗng con Top sủa dữ tợn. Từ sau hàng rào vang lên một phát súng, và đáp lại là một tiếng kêu thương đau.
Harbert đã bị trúng đạn nằm trên đất.

Chương 13
Tác giả: Jules Verne

Sau khi nghe tiếng kêu của Harbert, Pencroff bỏ súng lao đến chỗ chú bé.
- Chúng giết thằng bé rồi! – anh kêu lên – Chúng giết thằng em trai bé bỏng của tôi rồi! Chúng nó giết rồi! Giết rồi!
Cyrus Smith và Gédéon Spilett cũng lao đến chỗ Harbert. Nhà báo áp tai vào ngực chú, hi vọng bắt được nhịp đập con tim.
- Còn sống! – ông kêu lên – Phải đưa chú bé đi…
- Về Lâu đài Đá hoa cương ư? Như thế không được đâu. – viên kỹ sư lên tiếng.
- Vậy thì đưa chú bé vào khu chăn nuôi! – Pencroff kêu lên.
- Đợi chút đã! – Cyrus Smith trả lời.
Và ông lao về bên trái, định vòng qua hàng rào. Tại đây ông giáp mặt một tên cướp, hấn lẩy cò súng, viên đạn trượt qua mũi kỹ sư. Nhưng chưa kịp bắn viên thứ hai thì tên cướp đã ngã lăn ra đất bởi một nhát dao găm cắm vào tim. Cyrus Smith sử dụng gươm đao thành thạo hơn sử dụng súng.
Trong khi đó, Gédéon Spilett và chàng thuỷ thủ nhảy qua rào, xông thẳng vào nhà, nhưng ở đấy vắng tanh. Chẳng mấy chốc, chú Harbert bất hạnh được đặt nằm trên giường của Ayrton. Lát sau, Cyrus Smith vào với họ.
Sang ngày hôm sau, 11 tháng mười một, những người ngụ cư thấy hi vọng chút ít. Harbert đã tỉnh dậy sau cơn ngất kéo dài. Chú đã mở mắt và nhận ra Cyrus Smith, nhà báo và Pencroff đang cúi trên người chú. Thậm chí chú đã nói được vài lời. Mọi chuyện xảy ra chú không nhớ gì hết. Gédéon Spilett kể lại tóm tắt sự việc xảy ra cho chú nghe và năn nỉ chú phải hết sức nằm yên. Bởi vì, mặc dù nguy hiểm đã qua nhưng cần phải làm sao cho vết thương sớm thành sẹo. Tuy vậy, Harbert hầu như đã không cảm thấy đau, còn nước lạnh được đắp vào thường xuyên đã ngăn chặn được quá trình viêm nhiễm. Mủ được trích ra đều đặn, thân nhiệt không tăng nữa, vì vậy họ có thể hi vọng rằng vết thương đáng sợ sẽ khỏi mà không có biến chứng phức tạp gì. Pencroff lần đầu tiên thở phào nhẹ nhõm. Chàng biến thành “cô hộ lí” thật sự, chàng chăm sóc cho thằng bé cưng của mình, y như người mẹ hiền vậy.
Harbert lại thiếp đi, nhưng lần này giấc ngủ của chú thật bình yên.
Ngày 12 tháng mười một, trong lúc Pencroff trực bên giường bệnh nhân, Cyrus Smith và nhà báo đã bàn về tình hình xảy ra và quyết định bắt tay hành động.
Công việc đầu tiên của họ là đi tuần tra toàn bộ khu vực chăn nuôi, nhưng họ không thấy dấu vết gì của Ayrton.
- Chắc Ayrton tội nghiệp đã bị bọn chúng bắt. – Cyrus Smith nói – Nhưng anh ta đâu phải là người chịu buông súng đầu hàng dễ dàng, có lẽ anh ta đã bị chúng giết rồi.
- Vâng, tôi cũng sợ như vậy đó! – nhà báo đáp lại – Hiển nhiên bây giờ Ayrton dù sống hay chết cũng đã ở nơi xa rồi.
- Cho dù thế nào đi nữa, - viên kỹ sư nói – chúng ta cũng cần phải ở lại trại chăn nuôi cho đến khi nào có thể đưa được Harbert về Lâu đài Đá hoa cương.
- Nhỡ đột nhiên sự vắng mặt của chúng ta làm cho Nab lo lắng, không chịu ngồi yên ở Lâu đài Đá hoa cương và quyết định ra đây thì sao?
- Ôi, nếu như đường dây điện báo không bị đứt thì chúng ta báo tin cho chú ấy biết ngay rồi! Nhưng bây giờ không thể thực hiện được việc ấy nữa! Mặt khác, chúng ta không thể để Pencroff và Harbert ở lại đây một mình. Các bạn, tôi sẽ đi về Lâu đài Đá hoa cương báo tin cho Nab.
- Không, sao lại hành động liều lĩnh như thế, ngài Cyrus! – nhà báo kêu lên – Ngài không có quyền liều mạng. Lòng dũng cảm trong trong trường hợp này không giúp gì cho người khác. Bởi vì, quân đê tiện đang theo dõi chúng ta, chúng quẩn quanh đâu đó trong rừng, nếu ngài đi về Lâu đài Đá hoa cương là chúng tôi sẽ phải khóc than không phải cho một mà là cho hai người nữa đó.
- Chẳng lẽ không thể làm gì được để báo tin cho chú ấy biết sao?
Ánh mắt của viên kỹ sư chợt dừng nơi con Top. Trong suốt thời gian họ nói chuyện, con chó trung thành cứ chạy trong phòng với một vẻ lo lắng, như muốn nói rằng: “Thế còn tôi thì sao?”
- Top! – Cyrus Smith kêu to.
Con Top lao về phía chủ.
- Đúng, nên cho con Top đi, – nhà báo đoán được ý nghĩ của viên kỹ sư – Con Top sẽ dễ dàng đi qua nơi mà chúng ta không qua nổi! Nó sẽ mang thư về Lâu đài Đá hoa cương và đem câu trả lời từ đó về đây.
- Đừng để mất phút giây nào nữa! – viên kỹ sư kêu lên – Nhanh lên nào!
Gédéon Spilett nhanh chóng xé một tờ giấy ở cuốn sổ nhỏ dùng để ghi chép và viết mấy dòng:
“Harbert bị thương. Chúng tôi tạm thời ở lại khu chăn nuôi. Hãy cẩn thận. Không được rời Lâu đài Đá hoa cương. Có thấy bọn cướp biển xuất hiện ở ngoại vi Lâu đài không? Gởi trả lời cho con Top mang theo”.
Nhà báo gấp thư lại và nhét vào vòng cổ con Top, cố ý để cho một góc tờ giấy ló ra ngoài.
- Top! Con chó bé nhỏ của ta! – viên kỹ sư vuốt ve con Top – Nab! Mày hiểu không Top, Nab! Đi đi nào! Trao lá thư này cho Nab.
Viên kỹ sư ra mở cổng.
- Nab! Top hiểu không, Nab! – ông nhắc lại, chỉ tay về hướng Lâu đài Đá hoa cương.
Con Top lao ra ngoài hàng rào và trong nháy mắt đã biến mất. Lúc ấy là mười giờ…
Những người ngụ cư lo lắng đợi con Top trở về. Gần mười một giờ, Cyrus Smith và nhà báo đứng sẵn chờ đợi mở cổng khi nghe vẳng lại tiếng chó sủa từ xa. Họ biết chắc con Top đã an toàn về đến Lâu đài Đá hoa cương và Nab phải cho nó về lại đây để trao lá thư trả lời của anh ta cho họ.
Họ cứ đứng như vậy chừng mười phút, bỗng có tiếng súng vang lên, sau đó là tiếng sủa dài.
Viên kỹ sư mở toang cổng và nhận thấy cách đó chừng 100 bước có khói thuốc súng, ông bắn về hướng đó.
Hầu như ngay tức khắc con Top lao vụt qua hàng rào khu chăn nuôi và cánh cổng đóng sập ngay lại.
- Top! Top! – viên kỹ sư kêu to, hai tay túm lấy mõm con chó dễ thương.
Trên vòng cổ của con Top có buộc một mảnh thư, Cyrus Smith đọc lướt qua mấy chữ Nab viết nguệch ngoạc:
“Ở ngoại vi Lâu đài Đá hoa cương không có tên cướp biển nào. Con sẽ không bao giờ rời vị trí của mình. Tội nghiệp Harbert”. *
* * Sức khoẻ của Harbert ngày một khá hơn. Những người ngụ cư bây giờ chỉ mong muốn một điều: Hễ chú bé khoẻ là đưa chú về Lâu đài Đá hoa cương… Bởi vậy họ sốt ruột đợi đến ngày có thể đưa Harbert về nhà và không có biến chứng nào gây nguy hiểm cho sức khoẻ của chú. Họ đã quyết định dù thế nào đi nữa cũng phải thực hiện kế hoạch của mình, mặc dù họ hình dung rất rõ rằng đi qua rừng Jacamar sẽ rất khó khăn.
Trưa 29 tháng mười một, tranh thủ lúc Harbert ngủ, Cyrus Smith, Gédéon Spilett và Pencroff đã phác thảo kế hoạch hành động chống lại bọn cướp biển.
Đã một, hai lần chàng nhà báo ra khỏi khu chăn nuôi và tuần tra quanh hàng rào. Cùng đi có Top, Gédéon Spilett lăm lăm trong tay khẩu súng cacbin sẵn sàng đối phó với bất kì cuộc đụng nào.
Do vậy, Gédéon Spilett liền mạnh dạn đi sâu hơn vào khu rừng rậm chừng một phần tư dặm. Bỗng ông thấy con Top bắt đầu lo lắng.
Con Top lùng sục trong rừng chừng năm phút, còn nhà báo thì thận trọng theo dõi nó. Bỗng con chó lao vào bụi rậm nhỏ và tha trong đó ra một mảnh vải. Đấy là một tấm áo lem luốc, bị rách tơi tả. Gédéon Spilett lập tức mang vật tìm thấy về khu chăn nuôi.
Những người ngụ cư chăm chú xem xét mảnh vải và nhận ra đó là một phần thuộc chiếc áo bludong của Ayrton.
Niềm hi vọng gặp bạn lại nhen lên trong lòng những người ngụ cư. Trước đây họ nghĩ rằng một viên đạn của bọn cướp biển đã bất ngờ giết chết Ayrton, giống như đã bắn Harbert bị thương. Nhưng nếu bọn tội phạm không giết anh ta ngay, mà chúng đưa anh ta đến nơi nào đó trên đảo thì có lẽ bây giờ anh ta đang là tù binh của chúng.
Họ quyết định đưa Harbert về Lâu đài Đá hoa cương và sau đó tiến hành cuộc tìm kiếm Ayrton.*
* * … Việc quan trọng bây giờ là sức khoẻ của Harbert. Mười phút sau, chiếc xe được đấy tới sát bức tường thành đá hoa cương. Thang máy được khởi động và chẳng bao lâu Harbert đã nằm trên giường của mình trong Lâu đài Đá hoa cương.
Chú bé sốt li bì, hết cơn nọ đến cơn kia.
- Thuốc chống sốt rét!... – viên kỹ sư nhắc lại – Lấy đâu ra được thứ đó? Ở nơi ta không có vỏ cây quinin, không có sunfat quinin!
Cũng cần nhận xét rằng, sau những cơn sốt Harbert phờ phạc hẳn đi, đầu chú nặng trĩu, mắt tối sầm. Lại thêm một triệu chứng làm cho Gédéon Spilett hoảng sợ là: gan của Harbert bị sưng to quá, và chẳng bao lâu, cơn mê sảng đã tăng lên, chứng tỏ bệnh đã ảnh hưởng đến não.
Tình trạng phức tạp mới ấy khiến Gédéon Spilett xúc động. Ông dẫn viên kỹ sư ra một nơi và nói:
- Đây là sốt rét ác tính!
- Sốt rét ác tính ư? – Cyrus Smith kêu lên – Anh có nhầm không đấy, Spilett? Sốt rét ác tính không thể phát ra ngay như thế được. Vậy là trong cơ thể Harbert phải có mầm bệnh sốt rét từ trước kia rồi.
- Không, tôi không nhầm đâu. – nhà báo nói – Harbert chắc chắn đã bị nhiễm bệnh ấy ở vùng sình lầy này đây. Chúng ta đã chứng kiến cơn sốt rét. Có lẽ sẽ đến cơn thứ hai, mà nếu không kịp phòng ngừa cơn thứ ba thì Harbert sẽ chết mất.
- Thế vỏ cây liễu có thay được vỏ cây quinin không?
- Nó sẽ không giúp gì được trong trường hợp này. – Gédéon Spilett trả lời – Một khi bị sốt rét ác tính mà không cắt được cơn thứ ba thì không tránh khỏi tử vong.
Đến giữa trưa thì cơn sốt rét thứ hai bắt đầu. Bệnh biến chứng thật đáng sợ. Harbert đã cảm thấy mình gần cõi chết. Chú chìa tay về phía Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Pencroff với vẻ cầu khẩn. Chú không muốn chết! Thật là một cảnh tượng đau xé lòng. Đành phải đưa Pencroff ra khỏi phòng.
Cơn sốt thứ hai kéo dài suốt năm giờ. Chắc chắn là bệnh nhân không chịu đựng nổi cơn sốt thứ ba.
Khoảng ba giờ sáng, Harbert la hét điên dại và co giật y như đang hấp hối. Nab trực bên giường chú, hoảng hốt chạy bổ sang phòng bên cầu cứu các bạn của anh đang ngồi đó.
Lúc ấy con Top cất tiếng sủa với một vẻ lạ lùng mà thỉnh thoảng người ta vẫn gặp.
Một bóng người lao vào phòng ngủ và kịp đỡ chú bé đang hấp hối đúng lúc trong phòng không có ai trực ban. Trong cơn mê sảng chú suýt lăn từ trên giường xuống sàn nhà. Một lát sau Nab cùng mọi người trở lại phòng với Harbert. Gédéon Spilett cầm tay Harbert, thấy mạch của chú dần dần trở nên đều hơn.
Đã năm giờ sáng. Những tia nắng ban mai lọt vào cánh cửa sổ nhỏ của Lâu đài Đá hoa cương. Một tia nắng rọi trên chiếc bàn nhỏ kê cạnh giường bệnh nhân đang hấp hối.
Và bỗng Pencroff kêu to lên, chỉ vào một cái hộp nhỏ hình thoi không biết tự bao giờ đã xuất hiện trên chiếc bàn con. Trên nắp hộp có hàng chữ: sunfat quinin.*
* * Gédéon Spilett chộp lấy cái hộp nhỏ và mở ra. Trong đó có khoảng hai trăm gram chất bột trắng. Nhà báo lấy vài hạt bột mịn ấy bỏ vào mồm. Vị đắng khủng khiếp của nó khẳng định rằng dòng chữ viết trên nắp hộp không nhằm mục đích đánh lừa ai. Thật vậy, đó là chất quý từ vỏ cây quinin, một loại thuốc tốt nhất để đặc trị sốt rét.
Không cần phải suy nghĩ lâu la gì nữa, cần phải cho Harbert uống bột thuốc quinin.
- Cà phê! – Gédéon Spilett yêu cầu.
Ngay lập tức, Nab mang đến một tách cà phê nóng, Gédéon Spilett bỏ vào đó khoảng mười tám gram quinin và cho Harbert uống.
Vẫn còn chưa muộn – cơn sốt rét thứ ba chưa bắt đầu!... Ít nhất bây giờ nó cũng không thể phát ra được nữa.
Mấy giờ sau Harbert ngủ yên giấc hơn.
Trong ngày, cứ cách ba giờ, những người ngụ cư lại cho Harbert uống quinin một lần.
Sang ngày hôm sau, chú thấy khá hơn. Tất nhiên, chú chưa khoẻ hẳn. Ai nấy trong tim đều ấm niềm hi vọng. Và niềm hi vọng đó không phải là hão huyền. Mười ngày sau, 20 tháng mười hai, Harbert bắt đầu bình phục.
Harbert đã 17 tuổi, cơ thể phát triển rắn chắc. Những ngày cuối tháng giêng, chú đã đi dạo quanh cao nguyên Tầm nhìn và khắp bờ biển. Nhiều lần chú đã tắm biển cùng với Pencroff và Nab, và những lần tắm ấy rất có lợi cho chú. Cyrus Smith thấy đã có thể ấn định ngày lên đường đi thám hiểm hòn đảo. Như mọi khi, vào thời gian ấy trong năm, ban đêm trời rất sáng, điều kiện ấy rất thuận lợi cho việc trinh sát mà họ định tiến hành trên toàn đảo, nhằm hai mục đích: Thứ nhất, tiêu diệt bọn cướp biển và tìm cho được Ayrton, nếu anh ta còn sống. Thứ hai, tìm ra con người bí ẩn đã bí mật giúp đỡ cuộc sống của những người ngụ cư…
Họ lên đường vào một ngày đẹp trời.
Sau khi khảo sát cánh rừng ven biển kéo dài từ mũi Rắn đến suối Thác nước.
Chẳng mấy chốc họ đến khu chăn nuôi. Ở đó không có ai. Đội quân nhỏ nhanh chóng băng qua “khu vực nguy hiểm” và dũng cảm tiến sát hàng rào. Chiếc xe kéo cũng dừng lại ở đó. Không một phát súng nào phá tan sự im lặng. Viên kỹ sư, nhà báo, Harbert và Pencroff đến xem cổng có bị khoá trái không.
Hoá ra có một cánh cổng để mở! Cả năm người lại gần cổng. Quả thật, ngay trước mắt họ, trong khung cửa sổ có ánh lửa mờ mờ nhấp nháy. Những người ngụ cư đã lẻn vào trong sân, sẵn sàng vũ khí trong tay. Chiếc xe kéo họ để ngoài hàng rào cho Jup và Top giữ, để cho chắc chắn, họ buộc chúng vào chiếc xe. Lát sau, cả năm người đều đến cạnh ngôi nhà. Sát bên cánh cửa khoá.
Cyrus Smith ra hiệu cho các bạn giữ yên lặng và ông ghé mắt nhìn vào cửa sổ mà ánh sáng từ bên trong hắt ra lờ mờ. Ông đưa mắt nhìn bao quát căn phòng. Trên bàn có ngọn đèn đang cháy. Cạnh bàn là cái giường mà trước đây Ayrton đã ngủ. Có ai đó nằm trên giường. Bỗng Cyrus Smith né khỏi cửa sổ và nói khé:
- Ayrton!
Ngay lập tức những người ngụ cư đã mở, đúng hơn là phá, cửa và lao vào phòng.
Ayrton hình như đang ngủ. Nét mặt anh phờ phạc nói lên bao nỗi đau khổ kéo dài hơn cả tháng nay. Trên hai cổ tay và mắt cá chân anh thấy có những vết xây xát rớm máu.
- Ayrton! – Cyrus Smith cúi xuống gọi và nắm lấy tay người đang ngủ.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ này đã diễn ra trong hoàn cảnh khác thường biết bao. Ayrton mở mắt ra và nhìn Cyrus Smith, sau đó, nhìn khắp lượt những người còn lại.
- Ngài? – anh ta kêu lên – Không lẽ đây là ngài sao?
- Ayrton! Ayrton! – Cyrus Smith nhắc lại.
- Tôi đang ở đâu thế này?
- Ở khu chăn nuôi của chúng ta.
- Một mình ư?
- Phải.
- Nhưng bọn chúng sẽ đến đây bây giờ đấy! – Ayrton kêu lên – Hãy đề phòng, các ông hãy đề phòng!
Và anh ta ngã xuống giường vì kiệt sức.
- Spilett! – viên kỹ sư – Bọn chúng có thể tấn công chúng ta bất kì lúc nào. Các bạn hãy cho xe vào trong sân. Sau đó, khoá cổng lại, rồi quay về đây.
Mọi người nhanh chóng làm theo lệnh của viên kỹ sư. Nhưng khi chạy ra khỏi hàng rào, họ đã nghe thấy tiếng gầm gừ khàn khàn của con Top. Vừa lúc ấy, trăng đã lên khỏi những lùm cây rậm rạp đen ngòm, khu chăn nuôi trở lên sáng trưng như ban ngày. Khi mọi người đẩy xe vào sân, con Top lại dứt dây, sủa dữ dội và lao sâu vào khu chăn nuôi, phía bên phải căn nhà.
- Hãy cẩn thận, các bạn! Nhắm vào mục tiêu. – Cyrus Smith kêu to.
Những người ngụ cư tì súng và sẵn sàng nhả đạn. Con Top sủa hoài không dứt, còn chú Jup thì chạy lại chỗ Top và rít lên inh ỏi.
Những người ngụ cư lần theo tiếng chó sủa và ra đến một con suối chảy dưới những hàng cây cao.
Họ đã nhìn thấy gì bên bờ suối vằng vặc ánh trăng vậy? – Trước mắt họ là năm cái xác nằm trên cỏ.
Đó chính là những tên cướp biển mà bốn tháng trước đây đã đổ bộ lên đảo Lincoln.
http://truyen.fullf.net  
 

Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 7 - 8 - 9 - 10
» Xin lỗi, chỉ vì em là kẻ thứ ba (Chương 1)
» Xin lỗi, chỉ vì em là kẻ thứ ba (Chương 2a)
» Yêu và hận chương 10
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 -
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Truyện 12 chòm sao :: Lớp học văn :: Gian truyện sưu tầm :: Hòn đảo bí mật!-