Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng NhậpShop

Share
 

 Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 4 - 5 - 6

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Yubj Tran
Học sinh nhà Đất
avatar
Tổng số bài gửi : 808
Join date : 21/04/2013
Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 4 - 5 - 6 Empty
Bài gửiTiêu đề: Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 4 - 5 - 6   Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 4 - 5 - 6 Icon_minitimeThu Apr 25, 2013 6:49 pm

Chương 4
Tác giả: Jules Verne

Một phút sau, cả ba người thợ săn đều có mặt bên ngọn lửa bừng cháy. Trên bếp lò, cạnh đấy là Cyrus Smith và nhà báo đang ngồi. Pencroff dừng lại và lặng thinh nhìn họ, tay vẫn xách con heo nước vừa săn được.
- Thế nào, anh bạn yêu quý? – nhà báo nói – Lửa đang cháy đó! Lửa thật sự nhé. Anh ngạc nhiên à! Có thể nướng con thú này được rồi, và chúng ta sẽ làm một bữa tiệc thật thịnh soạn.
- Ai nhóm được lửa? – Pencroff thắc mắc.
- Mặt trời!
- Ngài có kính lúp à, thưa ngài Smith? – Harbert hỏi.
- Không có! – Viên kỹ sư trả lời – Nhưng ta đã chế ra nó.
Và Cyrus Smith giới thiệu dụng cụ đóng vai trò chiếc kính lúp ấy. Đó là hai mặt thuỷ tinh tròn được tháo ra từ chiếc đồng hồ bỏ túi của Smith và Spilett. Sau khi đổ nước vào các mặt kính, ông xếp chồng chúng lên và lấy đất sét trét vào cạnh. Thế là ông có một thấu kính hội tụ. Chỉ cần thu ánh nắng mặt trời vào tiêu điểm của kính là có được sức nóng đủ để tạo ra lửa.
- Ghi chép đi chứ, ông Spilett. – Pencroff nói – Hãy ghi điều này vào cuốn sổ tay của ông đi.
- Ghi rồi. – nhà báo trả lời.
Họ đã ăn một bữa tối rất ngon. Món thịt heo nướng không chê vào đâu được. Bữa ăn được bổ sung thêm món rong biển và hạt thông bá hương. Viên kỹ sư hầu như không nói gì, ông đang mải mê nghĩ đến chuyện leo núi để quan sát địa hình ngày mai.
Khi trăng đầu tháng vừa lặn xuống mặt biển, viên kỹ sư Cyrus Smith đã nắm lấy tay của cậu bé và thốt lên:
- Đảo! Chúng ta lạc xuống một hòn đảo!
Viên kỹ sư và các bạn đồng hành của ông lặng người đi hồi lâu, mắt đăm đăm nhìn đại dương. Hôm sau, họ trèo lên một ngọn núi lửa đã tắt với hy vọng phát hiện một vùng đất khác gần nơi đây. Một hòn đảo hoặc một rẻo đất mà hôm qua trong đêm tối họ đã không trông thấy.
- Các bạn! – viên kỹ sư nói sau khi quan sát địa hình – Tôi cảm thấy tôi sẽ không sai nếu tôi cho rằng hòn đảo của chúng ta kéo dài hơn một trăm hải lý.
- Thế diện tích của nó là bao nhiêu?
- Khó mà nắm được. Nó bị chia cắt chằng chịt khó đoán quá.
- Đây là hòn đảo đã từng có con người ở chăng?
Nhà báo là người đầu tiên hỏi to lên câu ấy. Mọi người cảm thấy rằng nếu họ lên đỉnh núi quan sát bề mặt hòn đảo thì họ đã có thể trả lời câu hỏi ấy bằng một sự phủ nhận.
Không thấy có chỗ nào có sự sáng tạo của bàn tay con người cả. Công việc tìm hiểu hòn đảo một cách sơ lược đã xong, họ đã xác định được địa hình của hòn đảo, đã tính toán được diện tích, ấn định được tình hình địa lý thuỷ văn và sơn văn của đảo. Trên sơ đồ mặt bằng do nhà báo vẽ vội vàng đã làm ký hiệu địa thế, vị trí các khu rừng và đồng bằng. Bây giờ cần phải men theo sườn núi đi xuống và nghiên cứu những tài nguyên khoáng sản, hệ dộng vật và thực vật của đảo.
Nhưng trước khi ra hiệu lệnh xuất phát, Cyrus Smith bàn bạc vài lời với mọi người:
- Các bạn! – ông nói với vẻ bình tĩnh và nghiêm nghị thường ngày của mình – Ý trời đã định và chúng ta bị quẳng lên mảnh đất nhỏ bé này. Tôi và các bạn rõ ràng là phải ở lại chốn này, và có lẽ rất lâu đấy. Tất nhiên có thế là bất thình lình chúng ta sẽ được cứu giúp, nếu như tình cờ có một con tàu đi qua đảo… Tình cảnh chúng ta như vậy đó, tôi không muốn giấu các bạn một điều gì hết…
- Và ngài làm như vậy là đúng, Cyrus Smith thân mến! – nhà báo nhiệt tình đáp lại – Chúng tôi tin tưởng nơi ngài. Ngài có thể trông cậy vào chúng tôi. Có phải thế không, các bạn?
- Cháu sẽ nghe lời ngài trong hết thảy mọi việc, thưa ngài Cyrus Smith, – Harbert nói, cậu nắm chặt tay viên kỹ sư.
- Con sẽ đi với ngài đến cùng trời cuối đất! – Nab kêu lên.
- Còn tôi thì thế này nhé, - chàng thuỷ thủ nói – Pencroff không bao giờ trốn tránh công việc cả! Và nếu ngài muốn, thưa ngài Smith, thì chúng ta sẽ làm cho hòn đảo này thành một nước Mỹ nhỏ! Tôi chỉ yêu cầu ông một điều thôi.
- Điều gì? – nhà báo hỏi.
- Chúng ta hãy xem mình không phải như những người xấu số bị nạn, mà là những người đi khai khẩn, đến hòn đảo này với mục đích duy nhất là tạo dựng vùng di dân ở đây!
Cyrus Smith không thể nén nổi nụ cười. Lời đề nghị của chàng thuỷ thủ được chấp nhận. Sau đó, viên kỹ sư đã cảm ơn những người bạn của mình về sự tin cậy mà họ đặt nơi ông và nói thêm rằng ông hết sức trông mong vào nghị lực của họ cũng như sự phù hộ của thượng đế.
- Khoan đã, các bạn! – kỹ sư ngăn mọi người lại – Tôi thiết nghĩ nên đặt tên cho hòn đảo của chúng ta, cho từng mũi biển, từng doi đất, lẫn những con suối mà chúng ta đã nhìn thấy ở đây.
- “Hang ngụ cư” chẳng hạn. – Harbert nhận xét.
- Phải đấy, – Pencroff xác nhận – Một cái tên thích hợp. Vậy ta dành cái tên “Hang ngụ cư” cho nơi trú chân đầu tiên của chúng ta nhé, ngài Cyrus Smith đồng ý không?
- Tất nhiên, Pencroff, một khi anh đã tán dương việc đặt cho nó tên như vậy rồi mà.
- Vâng, tất nhiên rồi, nghĩ ra tên để đặt cho một địa danh cũng chẳng khó gì. – chàng thuỷ thủ nói vẻ thích thú.
- Theo tôi, nên tìm những cái tên nào thường xuyên nhắc nhở chúng ta nhớ đến Tổ quốc ấy, – Gédéon Spilett góp ý.
Đề nghị của kỹ sư được nhẩt trí thông qua. Gédéon Spilett ghi lại những cái tên ấy, và danh mục địa lý của đảo đã được quy định xong xuôi: vịnh Hợp chủng, vũng Washington, núi Franklin, bán đảo Uốn khúc, mũi Rắn, vịnh Cá mập, mũi Xương hàm…
- Còn hòn đảo nữa, ta đã đặt tên cho hòn đảo đâu!
Harbert đề nghị lấy tên của Cyrus Smith đặt cho hòn đảo, nhưng viên kỹ sư đã vượt lên trước chú.
- Các bạn, – ông nói chân tình – chúng ta sẽ lấy tên tổng thống kính yêu đặt tên cho hòn đảo của chúng ta để vinh danh vị công dân cao thượng nhất của nước Mỹ cộng hoà, vinh danh con người đang đấu tranh để bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Hãy đặt tên cho mảnh đất này là đảo “Lincoln”!
Đáp lại lời đề nghị của Cyrus Smith là sự phấn khởi của mọi người.
Đó là ngày 30 tháng ba năm 1865. Họ đâu có biết được rằng mười sáu ngày sau ở Washington đã xảy ra một tội ác dã man: vào hôm thứ sáu tai hại, Abraham Lincoln đã ngã xuống do bàn tay của một kẻ cuồng tín ám sát.
Pencroff tuyên bố đã đến lúc ăn sáng và tiện dịp Cyrus Smith và nhà báo quyết định kiểm tra lại đồng hồ của mình.
Cần nói rằng, chiếc đồng hồ của Gédéon Spilett không bị vô nước, bởi anh không bị rơi xuống biển. Đó là loại đồng hồ bỏ túi xinh xắn, được nhà báo hàng ngày lên dây rất cẩn thận.
Cyrus Smith tất nhiên không thể lên dây cho chiếc đồng hồ của mình trong khi ông nằm bất tỉnh ở đụn cát. Nhưng khi về đây ông đã lên dây nó và căn cứ theo mặt trời ông đã xác định thời gian là khoảng gần chín giờ, và vặn lại kim đồng hồ.
Gédéon Spilett quyết định làm theo ông, nhưng Cyrus Smith ngăn anh ta lại:
- Đừng anh bạn thân mến! Đồng hồ của anh lấy theo giờ Richmond phải không?
- Vâng, thưa ngài Smith.
- Đừng vặn lại giờ. Hãy lên dây đồng hồ của mình cẩn thận mỗi ngày, nhưng đừng có động vào kim – cứ để chúng vậy đi. Điều đó có ích cho chúng ta sau này.
Sau bữa ăn sáng Cyrus Smith đề nghị các bạn đi về Hang ngụ cư bằng con đường khác. Ông muốn xem xét lòng hồ tại một vị trí gần hơn, cây cối bao quanh hồ rất đẹp.
Cyrus Smith bình thản đi bên cạnh nhà báo lúc nào cũng kè kè cuốn sổ tay để ghi chép bất cứ việc gì xảy ra. Thỉnh thoảng, viên kỹ sư lại tạt sang một bên để lựa những mẫu khoáng sản hoặc bứt một loài thực vật nào đó, lẳng lặng bỏ vào túi, chẳng nói một câu nào thừa.
Sau bữa ăn tối, khi những người bộ hành đã định ngủ, Cyrus Smith móc trong túi ra những hòn đá nhỏ – đó là các mẫu khoáng sản khác nhau – và giải thích ngắn gọn:
- Các bạn hãy xem đây, đây chính là quặng sắt, đây là pirit, đây là đất sét, đây là đá vôi. Nó sẽ đóng góp cho sự nghiệp chung của chúng ta. Ngày mai đến lượt chúng ta ra tay. *
* * - Thưa ngài Cyrus Smith, chúng ta bắt đầu từ chỗ nào đây? – sáng hôm sau Pencroff hỏi.
“Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu”. – Cyrus Smith nói – Bắt đầu từ việc làm một thiết bị để gia công khoáng liệu mà thiên nhiên ban cho. Ai cũng biết là trong việc gia công này nhiệt độ cao đóng vai trò quan trọng như thế nào. Nhiên liệu, như củi lẫn than đá thì đều đã có đủ. Chỉ còn việc xây lò nữa thôi.
- Thế cái lò ấy dùng để làm gì? – Pencroff hỏi.
- Chúng ta sẽ tự chế lấy những đồ đựng. Những thứ này rất cần. – Cyrus Smith trả lời.
- Thế xây lò bằng gì?
- Bằng gạch.
- Thế gạch làm bằng gì?
- Bằng đất sét. Lên đường thôi, các bạn! Để khỏi mất công chuyên chở nguyên liệu, ta sẽ xây dựng các xưởng ngay tại chỗ khai thác. Nab sẽ mang thức ăn đến cho chúng ta, còn lửa để nấu nướng thì chúng ta có đủ.
- Tuyệt! – nhà báo nhận xét – Lửa thì sẽ có thôi, nhưng còn thức ăn thì sẽ không có, một khi chúng ta không có súng để đi săn.
- Ồ, giá có được một con dao nhỏ! – chàng thuỷ thủ xuýt xoa.
- Vậy thì sao? – Cyrus Smith hỏi.
- Thì tôi sẽ làm ngay một cây cung và những mũi tên chứ “sao”? Và thế là chúng ta sẽ tha hồ mà ăn thịt thú!
- Ừ… con dao. – viên kỹ sư nói với vẻ suy tư, như tự chuyện trò với bản thân mình.
Tình cờ ông trông thấy con Top chạy tung tăng trên bờ biển. Mắt Cyrus Smith sáng lên.
- Top, lại đây! – ông gọi.
Con chó chạy lại chỗ ông chủ, Cyrus Smith dùng hai tay ôm lấy đầu con chó, tháo cái vòng cổ của nó ra, bẻ làm đôi, nói:
- Đây, Pencroff, cho anh hai con dao!
Đáp lại chàng thuỷ thủ reo lên “hoan hô” hai lần, chiếc vòng cổ của con Top được làm bằng một thanh thép mỏng đã tôi, chỉ cần mài nó vào đá là có được một lưỡi dao sắc, rồi sau đó dùng một mảnh da mịn chà cho nó khỏi nhám là xong.
Các cư nhân của đảo đã đi đến nơi mà họ khảo sát hôm qua. Ở đây có đất sét đỏ, rất thích hợp với việc nung gạch và ngói, và do đó, họ hoàn toàn có thể thực hiện được ý đồ của mình.
Thông thường người ta làm gạch bằng khuôn, nhưng những người ngụ cư phải dùng tay trần để nặn. Suốt ngày hôm ấy cho đến lúc trời tối, và cả ngày hôm sau họ tận dụng thời gian đó cho việc sản xuất gạch. Họ nhồi đất sét thật nhão và đều. Sau đó, nén thành những viên gạch sống thật cân đối, họ xếp gạch còn ướt thành những hàng và phơi nắng ba bốn ngày cho chúng thật khô, rồi sau đó đem nung chúng.
Ngày 2 tháng tư, Cyrus Smith đã quyết định thực hiện việc xác định vị trí của đảo theo phương hướng.
Ngày hôm trước, ông đã nhận xét chính xác thời gian lúc mặt trời lặn, đồng thời để ý cả hiện tượng khúc xạ. Còn ngày 2 tháng tư, ông xác định không kém phần chính xác thời gian lúc mặt trời mọc là mười hai giờ hai mươi bốn phút. Như vậy là hôm ấy sau sáu giờ mười hai phút mặt trời phải đi qua kinh tuyến của đảo, và điểm mà nơi mặt trời dừng lại trên trời ở thời khắc ấy sẽ cho biết đâu là phương bắc.
Đúng như đã định, Cyrus Smith xác định điểm ấy trên nền trời và vạch một đường tưởng tượng từ mặt trời qua hai cây sồi lớn mà ông đã chọn làm mốc, và tìm được kinh tuyến cố định cho việc quan sát thiên văn của mình.
Mẻ gạch nung được tiến hành hai ngày hai đêm và thành công mỹ mãn. Sau đó, họ để cho gạch nung nguội đi, trong khi ấy Nab và Pencroff, theo lệnh của Cyrus Smith dùng cành cây đan thành cái cáng và khiêng được một một đống đá vôi khá to lấy ở bờ bắc của hồ Grant. Số đá này sau khi đem nung lửa hoá thành vôi sống, sau đó được tôi lên, cũng tinh khiết y như loại vôi thu được khi nung đá hoa hay phấn vậy. Những người ngụ cư đem trộn dung dịch vôi tôi sền sệt với cát và họ được một chất dính kết tuyệt vời.
Ngày 9 tháng tư, do kết quả của những công việc trên, Smith đã có trong tay một ít vôi tôi và mấy ngàn viên gạch.
Khi ấy họ đã tranh thủ thời gian xây một chiếc lò để nung đủ các loại đồ gốm cần thiết cho sinh hoạt trong nhà. Việc xây lò đã hoàn thành chẳng có khó khăn gì. Năm ngày sau, họ chất than đá vào lò, Cyrus Smith đã tìm thấy các vỉa than lộ ra trên mặt đất ở gần cửa suối Đỏ, và từ ống khói cao hai mươi bộ, ngọn khói đầu tiên đã bốc lên. Khoảng đất trống đã biến thành công xưởng, và Pencroff không thấy xa lạ với ý nghĩ rằng từ cái lò này sẽ làm ra mọi thứ sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại.
Sẽ chẳng phải là thừa nếu nhắc lại rằng Pencroff muốn biết đất sét này có làm ống tẩu hút thuốc được không, và đã làm cho mình vài chiếc; những chiếc tẩu xấu xí hết mức, nhưng Pencroff lại cho là tuyệt trần. Nhưng thật đáng buồn là họ chẳng có gì để hút cả.
Chiều ngày 15 tháng tư, họ trở về Hang ngụ cư, mang theo loạt nồi, chén, đĩa cuối cùng và tắt lò cho đến lượt nung mới.
Sau khi ăn tối, Cyrus Smith và các bạn của ông đi ra bờ biển và hít thở không khí trong lành. Trên trời cao nổi bật lên các chòm sao cận cực, và sáng tỏ hơn cả là chòm sao Chữ Thập Phương Nam mà Cyrus Smith mới đây quan sát thấy từ trên đỉnh núi Franklin.
Bây giờ Cyrus Smith lại nhìn hồi lâu chòm sao tuyệt trần này, ở phía trên và phía dưới của nó lấp lánh hai ngôi sao thứ nhất, ở bên trái là ngôi sao thứ nhì, còn bên phải là ngôi sao thứ ba.
Sau khi suy nghĩ, ông nói:
- Harbert, hôm nay là ngày 15 tháng tư phải không?
- Vâng, thưa ngài Cyrus – cậu bé đáp.
- Thế này nhé! Nếu tôi không nhầm thì ngày 16 tháng tư sẽ một trong bốn ngày trong năm mà giờ thật sẽ trùng hợp với giờ trung bình, tức là giữa trưa ngày mai theo đồng hồ (sai số chỉ có thể là vài giây) thì mặt trời sẽ đi qua kinh tuyến của vùng này. Nếu thời tiết chiều theo ý muốn của chúng ta mà nắng ráo, thì tôi nghĩ tôi sẽ xác định được hòn đảo nằm ở kinh độ nào, với sai số không quá vài độ.
- Không cần máy đo, không cần kính lục phân? – Gédéon Spilett hỏi lại.
- Phải. – viên kỹ sư đáp – Còn nếu đêm không bị mây che thì tối nay tôi sẽ thử xác định vĩ độ bằng cách tính xem chòm sao Chữ Thập Phương Nam cao cách chân trời bao nhiêu. Bởi vì, các bạn cũng biết rằng trước khi bắt tay vào những công việc lớn và thu xếp ở đây lâu dài thì, nếu có thể được, phải xác định xem hòn đảo của chúng ta cách nước Mỹ, cách châu Úc hoặc phần đảo chủ yếu của Thái Bình Dương bao xa.
- Ngài nói đúng – Gédéon Spilett nhận xét – Thay vì xây nhà, có lẽ quan trọng đối với chúng ta hơn là đóng một chiếc tàu thuỷ nếu chúng ta chỉ ở cách vùng dân cư vài trăm hải lý.
- Chính vì thế mà tôi muốn thử xác định ngay tối nay xem đảo Lincoln ở vĩ độ nào? Còn trưa ngày mai thì sẽ thử tính cả kinh độ của nó.
Cyrus Smith trở về Hang ngụ cư. Dưới ánh lửa bập bùng trong lò, ông bắt tay chuẩn bị một chiếc compa và những dụng cụ cần thiết cho việc xác định toạ độ của đảo. *
* * Sáng ngày hôm sau, 16 tháng tư, những người ngụ cư ngay từ lúc rạng đông đã ra khỏi Hang và bắt đầu giặt giũ quần áo, đập bụi và trải bộ đồ mặc ngoài. Kỹ sư định hễ tìm được các thành phần cần thiết như xút hoặc bồ tạt, mỡ hoặc dầu thực vật là sẽ nấu xà phòng. Quần áo họ đang mặc dù có lao động chân tay đi nữa ít ra nó cũng còn chịu đựng được nửa năm. Điều quan trọng nhất bây giờ là xác định đảo cách bờ bao xa, và những người ngụ cư muốn làm việc ấy ngay trong ngày hôm đó, nếu thời tiết cho phép.
Mặt trời nhô lên phía chân trời hứa hẹn một ngày quang đãng.
Harbert là một thiếu niên ham hiểu biết đã cùng đi với Smith ra bờ biển.
Cyrus Smith mang theo một cái sào thẳng tắp dài gần hai mươi bộ. Chiều dài này ông xác định theo chiều cao của bản thân mà ông biết hoàn toàn chính xác. Harbert được Cyrus Smith giao mang dây dọi – đó là một sợi dây leo mềm, một đầu được buộc vào một hòn đá thông thường.
Họ dừng lại cách mép nước biển chừng hai mươi bước và cách bức tường đá hoa cương chừng năm trăm bước, Smith cắm cây sào thẳng góc với mặt phẳng theo đường chân trời.
Sau khi làm xong, Cyrus Smith tránh sang bên và nằm xuống cách sào một khoảng đủ thu vào tầm mắt mình cả ngọn sào lẫn bức tường đá hoa cương hình răng lược. Ông đánh dấu chỗ ấy bằng một chiếc cọc con và quay sang Harbert hỏi:
- Cháu còn nhớ các tính chất của tam giác đồng dạng chứ?
- Vâng ạ! – chú bé trả lời – Các tam giác đồng dạng có tỷ lệ các cạnh tương ứng bằng nhau.
- Đúng thế! Cháu hãy nhìn đây! Giả sử tôi có hai tam giác vuông đồng dạng – một cái nhỏ hơn, trong đó hai cạnh của nó sẽ là: Cái sào cắm thẳng góc xuống cát, và cạnh thẳng bằng khoảng cách từ chân sào đến cây cọc nhỏ, còn đường huyền là tia nhìn của tôi; các cạnh của tam giác thứ hai là đường dây dọi của bức tường đá hoa cương mà độ cao của nó chúng ta cần phải đo, và khoảng cách từ cái cọc nhỏ đến chân tường, còn đường huyền là tia nhìn của tôi, tức là đường huyền của tam giác thứ nhất kéo dài.
- Hiểu rồi, thưa ngài Cyrus! Cháu hiểu hết rồi! – Harbert kêu lên – Khoảng cách từ cái cọc nhỏ tới cây sào tỷ lệ thuận với khoảng cách từ cái cọc nhỏ tới chân tường. Còn chiều cao của cây sào tỷ lệ thuận với chiều cao của bức tường.
- Đúng rồi Harbert – viên kỹ sư xác nhận – Và khi đó cả hai khoảng cách tính từ cái cọc nhỏ thì nếu biết chiều cao cây sào, ta nhanh chóng lập được tỷ lệ thức và do đó định được độ cao bức tường, khỏi phải vất vả đo trực tiếp.
Các cạnh đáy của hai hình tam giác đều đã được đo bằng chính cây sào mà độ cao của nó trên mặt cát bằng mười bộ, vậy là khoảng cách giữa cái cọc nhỏ và cây sào là mười lăm bộ, còn khoảng cách giữa cái cọc và chân tường là năm bộ.
Đo xong, Cyrus Smith đã lập được tỷ lệ thức như sau:
15 : 500 = 10
500 x 10 = 5000
5000 : 15 = 333,33
Vậy là chiều cao của bức tường đã hoa cương bằng ba trăm ba mươi ba bộ.
Khi ấy Cyrus Smith lấy dụng cụ đã làm hôm trước ra và ông bắt đầu đo góc giữa hai chân compa mở tương ứng với khoảng cách góc từ sao Alpha của chòm Chữ Thập Phương Nam tới mặt phẳng đường chân trời. Ông đo chính xác góc ấy theo hình tròn đã được chia thành 360 phần bằng nhau. Góc đo được bằng mười độ. Sau khi tăng thêm cho góc đó hai mươi bảy độ phân cách chòm Alpha với cực Nam, và ước lượng độ cao của bình sơn nguyên để tiến hành quan sát, ông đo được ba mươi bảy độ. Thế là Cyrus Smith đi đến kết luận đảo Lincoln ở 37 vĩ độ Nam. Nhưng xét thấy những quan sát và tính toán của mình không hoàn chỉnh, có thể sai đến năm độ, nên ông thấy kết luận đảo ở giữa vĩ tuyến ba mươi lăm đến bốn mươi độ vĩ Nam.
Để có được cả hai toạ độ của đảo, chỉ còn xác định kinh độ nữa thôi. Cyrus Smith đã quyết định thử làm việc đó ngay trưa hôm ấy, khi mặt trời đi qua kinh tuyến của vùng này.
Ông đã xác định được rằng khoảng cách giữa kinh tuyến của Washington và kinh tuyến đảo Lincoln khác nhau về thời gian là năm giờ; trên đảo Lincoln đang ở giữa trưa thì ở Washington là năm giờ chiều. Song mặt trời cứ bốn phút lại đi được một độ, một giờ đi được mười lăm độ, sau khi xác nhận mười lăm độ với năm, Cyrus Smith thu được bảy mươi lăm độ. Nếu kinh độ địa lý của Washington bằng 77º3’11” lấy tròn là bảy mươi bảy độ so với kinh tuyến gốc Greenwich thì có nghĩa là đảo ở về phía tây kinh tuyến Greenwich bảy mươi bảy độ (kinh độ của Washington) cộng với bảy mươi lăm độ, tức là một trăm năm mươi hai độ kinh Tây.
Cyrus Smith đã thông báo cho các bạn biết kết quả các tính toán của mình.
Các toạ độ tính được đã cho thấy họ đang ở cách đảo Tahiti và các hòn đảo của quần đảo Tuamotu ít nhất một ngàn hai trăm hải lý, nghĩa là cách Tân Tây Lan trên một ngàn tám trăm hải lý và cách bờ biển nước Mỹ trên bốn ngàn rưỡi hải lý…

Chương 5
Tác giả: Jules Verne

Thứ hai, 17 tháng tư, những lời đầu tiên buổi sáng hôm ấy Pencroff nói với Gédéon Spilett:
- Thế nào, ông Spilett, hôm nay chúng ta làm gì?
- Chuyện ấy thì đã có ngài Cyrus lo. Ông ấy cần có một số dây dẫn kim loại. – nhà báo trả lời.
Hoá ra từ những người thợ làm gạch và thợ gốm, bây giờ họ trở thành thợ luyện kim.
Họ ở cách quần đảo Tuamotu quá xa – một ngàn hai trăm hải lí – khó mà có thể đến đó được. Vả lại, đóng một chiếc thuyền thông thường thôi cũng đâu có dễ, ngay cả khi có đủ những dụng cụ cần thiết. Nghĩa là, trước hết họ phải làm búa, rìu lớn, rìu nhỏ, cưa, khoan, bào… mà muốn vậy đòi hỏi phải có thời gian. Thế là họ quyết định trú đóng trên đảo và tìm một chỗ thuận tiện hơn Hang ngụ cư, để sống qua mùa đông giá lạnh.
Trước tiên phải bắt tay khai quặng sắt ở những mỏ mà kỹ sư đã phát hiện nơi phía Tây Bắc đảo. Họ dự trù sẽ nấu sắt, thậm chí luyện thép nữa…
Cyrus Smith đã mang về Hang ngụ cư hai mẫu quặng: Một mẫu là quặng nam châm, còn mẫu thứ hai là pirit sắt. Nấu loại quặng thứ nhất, một loại ôxit sắt, dễ dàng hơn chỉ việc đem nung nó lẫn với than để khử ôxi đi và được sắt nguyên chất… Trên đảo Lincoln, cách mỏ quặng sắt ấy không xa lắm, có cả những vỉa than đá mà những người ngụ cư đã sử dụng. Do đó, việc luyện quặng đỡ khó khăn hơn vì mọi thứ cần thiết cho việc sản xuất đều tập trung ở một nơi.
- Thưa ngài Cyrus, vậy là, chắc chắn bây giờ chúng ta sẽ luyện sắt? – Pencroff hỏi.
- Phải, anh bạn của tôi ạ! – viên kỹ sư đáp – Trước hết anh hãy cho phép chúng tôi cùng anh đi ra hòn đảo “Cứu thoát” để săn hải báo ở đó đã.
Những người đi săn thận trọng di chuyển về đầu phía Bắc của đảo. Cách bờ có những vệt đen lớn đang bơi trên mặt biển, tựa hồ như những tảng đá ngầm di động. Đó là những con hải báo. Những người thợ săn nấp sau các vách đá rải rác trên bờ và lặng thinh chờ lũ hải báo bò lên.
Một giờ trôi qua và bầy hải báo cuối cùng đã lên bờ phơi nắng. Bất thình lình cái thân hình cao lớn của Pencroff đứng bật dậy trên bờ và kêu to lên. Kỹ sư và hai người cùng đi, ba chân bốn cẳng phóng tới chặn không cho những con hải báo xuống biển. Họ dùng gậy phang chết được hai con.
Kỹ sư đã trù tính lấy da hải báo khâu lại để làm những ống bễ lò rèn và biết chúng cần thiết cho việc thổi lửa khi nấu chảy kim loại.
Thế là bắt đầu từ sáng ngày 20 tháng tư họ tiến hành “thời kì luyện kim”, như nhà báo đã viết trong các ghi chép của mình. Để cho tiện, những người ngụ cư đã sắp xếp công việc ở gần ngay nơi có các vỉa than và quặng sắt ở phía đông bắc núi Franklin, cách Hang ngụ cư chừng sáu dặm biển. Các vỉa quặng ở đây lộ thiên, rất giàu chất sắt và thích hợp với cách thức tôi luyện mà Cyrus Smith định áp dụng, gọi là phương pháp “Catalon”, được dùng phổ biến ở Corse dưới hình thức đơn giản. Nhưng Cyrus Smith muốn tránh những thiết bị cồng kềnh, đã quyết định xếp quặng và than thành một khối lớn và dùng ống bễ thổi một luồng không khí vào giữa đống vật liệu ấy. Không khí từ ống bễ được thổi qua một cái ống nhỏ làm bằng đất sét chịu lửa, để tạo một luồng hơi nóng mạnh, nâng nhiệt độ quặng nung lên, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình phản ứng hoá học xảy ra.
Cuối cùng họ đã thành công và thu được loại sắt hạt bề mặt sần sùi, còn cần phải luyện vài lần nữa để loại bỏ lớp xỉ bám vào.
Thỏi sắt đầu tiên được họ tra cán và dùng làm búa để rèn những thỏi sắt hạt tiếp theo trên đe bằng đá hoa cương, và thế là họ đã có được một thứ sắt thô, nhưng thích hợp cho việc sản xuất bất kì công cụ nào như kìm, cuốc chim, xà beng…
Tất nhiên, thép có thể đem lại lợi ích hơn sắt nguyên chất nhiều, và Cyrus Smith đã luyện thép bằng cách nấu sắt lẫn với than đập nhỏ trong một cái nồi làm bằng đất sét chịu lửa.
Thép được đem gia công nóng và làm nguội. Dưới sự chỉ đạo khéo léo của Cyrus Smith, Nab và Pencroff đã chế ra những chiếc rìu, các lưỡi bào, các thanh thép, cưa, kéo, cuốc chim, mai, xà beng, đinh…
Ngày 5 tháng năm, “thời kì luyện kim” đã kết thúc, những người thợ rèn trở lại Hang ngụ cư. Chẳng bao lâu sau, họ đã bắt tay vào những công việc mới, nắm vững những thói quen mới và có quyền gọi mình là những người thợ cả của những nghề thủ công khác nữa: nấu xà phòng, pirit sắt, xút, glixerin, axit sunfuric, axit nitric… tất cả đều được chế biến từ nguyên vật liệu tại chỗ, dùng thứ nọ sản xuất ra thứ kia. Chẳng hạn, từ rong biển họ chế ra xút; từ pirit sắt họ sản xuất ra axit nitric. Và chẳng bao lâu sau Cyrus Smith đã dùng axit nitric pha chế với glixerin để sản xuất ra nitroglixerin – một chất nổ rất mạnh, có lẽ sức công phá mạnh hơn thuốc súng cả chục lần. *
* * Bấy lâu nay Cyrus Smith vẫn muốn tìm một chỗ ở mới vừa thuận tiện, vừa an toàn hơn để đề phòng thú dữ, hoặc các cuộc tấn công bất ngờ của bọn cướp biển, và điều đó làm ông nảy ra ý định nghiên cứu và sử dụng một con đường thông với chỗ ở, chất nitroglixerin mới điều chế đã được kỹ sư đem cho ứng dụng ngay vào việc phá bức tường đá hoa cương cho nước hồ thoát ra lối khác, để lộ lối thông xuống biển.
Nab và Harbert vào rừng lấy những cành cây có nhựa làm đuốc soi đường cho cả toán vào hang. Họ dò từng bước đi rất chậm chạp. Họ thấy cần phải di chuyển thận trọng, tuy nhiên, đã có con Top chạy trước, nên có thể trông cậy vào sự thính nhạy và sáng trí của nó, gặp trường hợp nguy hiểm nó sẽ báo động.
Những người ngụ cư đi xuống chiếc hang mỗi lúc một sâu hơn. Bỗng có những âm thanh nào đó từ sâu dưới con đường thông với biển vẳng lên khiến họ lưu ý. Mọi người dừng lại nghe ngóng.
- Con Top sủa đấy! – Harbert kêu lên.
- Ừ, – Pencroff đáp – mà nó sủa mới ghê chứ! Đúng là con chó dễ thương của ta hoá điên rồi!
- Chúng ta có vũ khí, cây gậy sắt trong tay tôi đây. – Cyrus Smith nói – Hãy cẩn thận đề phòng. Tiến lên các bạn.
Cyrus và các bạn lao đến cứu con Top. Tiếng sủa của nó mỗi lúc một rõ hơn. Và trong tiếng sủa đứt quãng của nó, họ cảm thấy có một sự giận dữ khác thường. Họ không phải tụt xuống một cách đơn thuần nữa, mà là lăn theo đáy hang trơn tuột, vài giây sau họ xuống sâu hơn 50 bộ và thấy con Top.
Ở nơi đây con đường thông vào một cái hang to, rất đẹp mà con Top đã tìm được và sủa lên một cách dữ tợn, Pencroff và Nab huơ đuốc soi tất cả những chỗ nhô ra và hõm vào trên các vách hang bằng đá hoa cương, còn Cyrus Smith, Gédéon Spilett và Harbert thì giơ gậy bịt sắt lên, sẵn sàng nghênh chiến với bất kì kẻ thù nào. Nhưng, cái hang lớn hoá ra trống trơn.
Cyrus Smith lấy một cành cây đang cháy vứt xuống hố sâu. Do rơi xuống nhanh nên cành cây cháy mạnh, soi rõ lòng giếng. Sau đó, ngọn lửa bắt đầu run rẩy và tắt ngấm – hẳn là cành cây đã chạm nước, nghĩa là nó đã rơi xuống đến mặt nước biển.
Sau khi tính toán thời gian mà cành cây rơi, Cyrus Smith xác định độ sâu của giếng ước chừng chín mươi bộ.
Vậy là nền của hang đá hoa cương ở độ cao cách biển chín mươi bộ.
- Đây chính là chỗ ở mới của chúng ta – Cyrus Smith quyết định.
Viên kỹ sư sai Pencroff dùng cuốc chim đục một cái lỗ con ở một chỗ trũng khá sâu trên tường đá. Hai giờ sau họ có được một “cửa sổ” ánh sáng lùa vào hang trước mặt những người ngụ cư hiện ra một cảnh tượng hùng vĩ.
- Chúng ta sẽ đặt tên gì cho cái hang này? – Harbert hỏi.
- “Lâu đài Đá hoa cương” – Cyrus Smith đáp. Và mọi người lại chào đón cái tên gọi ấy bằng những tiếng “hoan hô” vang dội. *
* * Hôm sau, 22 tháng năm, các công việc xây dựng chỗ ở mới bắt đầu. Những người đi săn không định bỏ hẳn Hang ngụ cư. Cyrus Smith đề nghị xây dựng ở đó một xưởng sản xuất. Còn ở hang mới, viên kỹ sư cho xây gạch, ngăn ra năm phòng, mở rộng lối đi, ông còn đục trên “mặt tiền” của hang năm ô vuông cửa sổ và một cửa ra vào.
Ngày 28 tháng năm, cuối cùng họ cũng làm xong một chiếc thang có ít nhất một trăm bậc. Thang được bện hết sức cẩn thận bằng các thứ dây rừng, bền không kém gì một sợi dây cáp to, buông từ ngưỡng cửa ra vào xuống đến bờ cát. Nhờ vậy, họ khỏi phải đi vòng qua đường thoát nước, vừa đỡ mất thời gian vừa đỡ mệt. May sao Cyrus Smith đã tìm được một bậc đá ở giữa chừng, cách biển độ bốn mươi bộ, đề làm điểm tựa cố định cho đoạn thang dưới thêm chắc chắn. Nhờ cấu trúc như vậy nên việc lên xuống thang không khó khăn lắm. Tuy nhiên, Cyrus Smith cũng đã trù tính cho xây một cái thang máy chạy bằng thuỷ lực để tiết kiệm thời gian và công sức của những người trong Lâu đài Đá hoa cương.
Những người ngụ cư nhanh chóng làm quen với việc lên thang.
Mỗi lần trèo xong, các chủ lâu đài lại rút thang lên, thế là không ai có thể đột nhập vào chỗ của họ từ phía dưới được.*
* * Đảo Lincoln mặc dù mới được những người khai khẩn nghiên cứu chưa bao lâu, nhưng đã đem lại cho họ mọi thứ cần thiết. Và dường như rất rõ ràng là trong các rừng của đảo kéo dài từ sông Tạ ơn đến mũi Rắn, trong các hang cùng hiểm hóc nhất, thiên nhiên hậu hĩ đã dành sẵn cho họ những của báu mới.
Họ chỉ còn thiếu bánh mì và thức ăn cần thiết nhất với họ.
Tuy nhiên, một lần nữa, thượng đế đã ra ân cho họ.
Hôm ấy trời mưa rào, những người sống trong Lâu đài Đá hoa cương giết thời gian bằng các việc làm khác nhau, họ cùng quây quần trong “phòng họp” của mình, bỗng nhiên chú bé Harbert thốt lên:
- Thưa ngài Cyrus, ngài hãy xem này! Đây là một hạt lúa mì!
Và chú đưa cho mọi người xem hạt lúa mì, một hạt lúa duy nhất còn lọt trong túi áo vét thủng mà chú vừa mang chữa lại.
Việc chú bé tìm thấy hạt lúa này được giải thích rất đơn giản. Ở Richmond, Harbert luôn cho những con bồ câu hoang ăn, chú có thói quen để dành thóc lúa trong túi…
- Một hạt lúa mì? – viên kỹ sư sốt sắng hỏi.
- Vâng thưa ngài Cyrus. Nhưng chỉ có một hạt duy nhất còn sót lại mà thôi.
- Chà, chú bạn thân mến! – Pencroff cười thốt lên – Chúng ta có thể làm gì với một hạt lúa?
- Sẽ nướng bánh mì. – Cyrus Smith đáp.
Không coi việc tìm thấy hạt lúa mì của mình có ý nghĩa gì hết, chú bé đã định ném nó xuống sàn nhà, nhưng Cyrus đã cầm lấy hạt lúa mì từ tay Harbert, và sau khi chăm chú quan sát, ông xác định hạt lúa không bị hư hại chút nào cả.
- Pencroff, – ông bình tĩnh hỏi, nhìn chàng thuỷ thủ chằm chặp, – một hạt lúa mọc lên sẽ cho bao nhiêu bông lúa? Anh có biết không?
- Một bông, tôi cho là vậy, – chàng thuỷ thủ ngạc nhiên nhìn viên kỹ sư, đáp.
- Không phải đâu, Pencroff ạ, mười bông. Nó nảy ra cả khóm lúa cơ mà! Thế anh có biết mỗi bông lúa có bao nhiêu hạt không?
- Tôi không biết.
- Bình quân là tám mươi. – Cyrus Smith nói – Vậy là, nếu chúng ta trồng hạt lúa này thì vụ thứ nhất chúng ta sẽ thu hoạch tám trăm hạt, có những hạt này vụ thứ hai sẽ cho sáu trăm bốn mươi ngàn hạt, vụ thứ ba năm trăm mười hai triệu, vụ thứ tư trên bốn trăm tỷ hạt. Một tỷ lệ thức ghê gớm như thế đó! Sau bốn năm – Cyrus Smith khẳng định – Và thậm chí sau hai năm, nếu ở các vĩ tuyến này, như tôi hi vọng, chúng ta sẽ thu hoạch một năm hai vụ. Vậy là, Harbert – viên kỹ sư nói thêm – Cái việc cháu tìm được hạt lúa mì ấy rất quan trọng đối với chúng ta. Trong những điều kiện mà chúng ta đang lâm vào, các bạn của tôi ạ, mọi thứ đều có thể ích lợi hết. Tôi yêu cầu các bạn chớ quên điều đó.
- Ngài Cyrus hãy an tâm, chúng tôi sẽ không quên đâu. – Pencroff đáp.
- Bây giờ đem trồng hạt lúa. – Harbert nói.
- Đúng! – Gédéon Spilett đồng ý – Và phải trồng nó với tấm lòng tôn kính thiêng liêng, bởi vì những vụ mùa tương lai của chúng ta đều trông vào đấy.
- Chỉ mong cho nó mọc lên được thôi! – chàng thuỷ thủ kêu lên.
- Nhất định nó sẽ mọc! – Cyrus đáp.
Sự việc diễn ra ngày 20 tháng sáu, đúng vào lúc thuận lợi nhất cho việc trồng hạt lúa mì duy nhất và do đó nó rất quý giá. Họ tiến hành trồng ngay trong ngày, và tất nhiên, mọi biện pháp đã được áp dụng để công việc quan trọng ấy diễn ra mĩ mãn.
Họ chọn ở gần ngay Lâu đài Đá hoa cương một chỗ khuất gió và tràn đầy ánh nắng mặt trời. Họ dọn sạch sẽ đá và cố đào, xới đất cho thật tơi xốp, thậm chí họ còn dùng tay bóp từng cục đất nhỏ, loại bỏ hết những con trùng và bọ hung, cho thêm một lớp phân mục trộn lẫn vào đó một ít vôi và, cuối cùng họ trịnh trọng bỏ hạt lúa xuống đất đã được làm ẩm và rào chỗ ấy lại.

Chương 6
Tác giả: Jules Verne

Đúng bảy tháng đã trôi qua kể từ ngày các du khách lạc đến đảo Lincoln. Và từ đó đến nay, bất chấp mọi cuộc tìm kiếm, họ đã không phát hiện được một người nào cả. Ấy thế mà bây giờ đây, hôm ấy 24 tháng mười, trong bữa ăn trưa, Pencroff đã nhai phải một viên đạn chì trong món thịt heo quay.
Pencroff đặt viên đạn chì lên bàn, các bạn của anh kinh ngạc nhìn. Cyrus Smith đã nói ra một số giả thuyết của mình về cái vật kì lạ và bất ngờ được tìm thấy ấy. Ông hỏi Pencroff:
- Anh có tin con heo bị thương bởi viên đạn này được khoảng ba tháng tuổi không?
- Không thể nào hơn được thưa ngài Cyrus – Pencroff trả lời – Con heo con đang bú mẹ, khi tôi nhìn thấy nó ở dưới hố bẫy mà.
- Vậy là, – viên kỹ sư nói tiếp – độ ba tháng trước đây trên đảo Lincoln này có ai đó đã từng bắn súng…
- Và viên đạn chì, – Gédéon Spilett nói thêm – đã làm con thú bị thương tuy chưa tử thương.
- Hiển nhiên rồi. – Cyrus Smith nói tiếp – Và đây, từ tất cả những điều ấy cần phải rút ra kết luận: Hoặc là trên đảo, trước chúng ta đã có ai đó sống, hoặc là có người đã lên đây chừng ba tháng trước, không hơn. Họ chủ tâm hay bắt buộc phải cập vào bờ biển của ta, họ bị tai nạn tàu thuỷ hay khí cầu gì đó – ai mà biết được? Nhưng, những vấn đề này quan hệ với chúng ta mật thiết tới mức không thể để lâu hơn nữa.
- Tôi sẵn sàng nhắc lại trăm lần, ngàn lần rằng trên đảo Lincoln không có ai khác ngoài chúng ta. – chàng thuỷ thủ từ sau bàn đứng dậy kêu to lên.
- Không còn nghi ngờ gì nữa. – Cyrus Smith nói – Có ai đó đã bắn súng trên đảo này, và cách đây không quá ba tháng. Nhưng tôi bảo đảm rằng những người đã lên đảo ở lại đây không lâu và chỉ đơn giản đi qua đảo thôi. Nếu họ sống ở đây thì khi đi khảo sát đảo từ trên núi Franklin ta đã thấy họ, còn họ thì cũng đã thấy ta.
- Theo tôi, cần phải hành động một cách thận trọng. – nhà báo nhận xét.
- Ý kiến của tôi cũng vậy. – Cyrus Smith trả lời – Tôi e bọn cướp biển Mã Lai đã lên đảo!
- Thưa ngài Cyrus. – chàng thuỷ thủ nói – Chẳng phải tốt hơn sao, trước tiên ta hãy đóng một cái thuyền, rồi sau đó đi thám thính khu vực, chúng ta sẽ bơi ngược dòng sông, còn nếu muốn thì bơi ra biển và vòng quanh đảo! Chỉ cốt sao chúng ta không bị tập kích!
- Một ý kiến hay đấy, Pencroff ạ! – viên kỹ sư trả lời – Nhưng không thể chờ đợi được. Bởi vì nhanh nhất cũng phải mất một tháng anh mới đóng xong chiếc thuyền.
- Thuyền thực sự thì vậy. – chàng thuỷ thủ trả lời – Nhưng chúng ta không cần thuyền để bơi trên biển, nhiều nhất là năm ngày tôi bảo đảm đóng xong cái thuyền đáy bằng vỏ cây theo kiểu thuyền của người da đỏ có thể bơi trên sông của ta…
Ngày hôm sau, Pencroff hối hả bắt tay vào việc đóng thuyền dưới sự hướng dẫn của kỹ sư. *
* * Ngày 29 tháng mười, Pencroff đã giữ đúng lời hứa và trong năm ngày đã đóng xong chiếc thuyền bằng vỏ cây, thân được gắn kết bằng những cành cây mền dẻo. Một chiếc thang đặt ở đuôi thuyền, thang giữa được gia cố hai bên mạn thuyền, thang thứ ba ở mũi thuyền để làm cọc chèo. Thuyền còn được trang bị hai mái chèo, mái chèo ở đuôi dùng để lái. “Con tàu nhỏ” ấy dài mười hai bộ và trọng lượng không quá hai tạ. Hạ thuyền xuống nước chẳng khó khăn gì. Con nước lên đã tự nâng nó. Pencroff nhảy phắt vào thuyền, thử lái bằng mái chèo ở đuôi và tin chắc rằng con thuyền đạt yêu cầu.
- Hoan hô! – chàng thuỷ thủ kêu to, được thể khoe khoang sự thành công của mình – Chúng ta có thể ngồi lên chiếc thuyền này đi du lịch vòng quanh…
- Thế giới? – Gédéon Spilett nói hòa theo.
- Không, vòng quanh đảo… Nào, các bạn, trèo lên, xem con tàu mới của chúng ta có chịu trọng lượng của năm người không!
Thế là tất cả ngồi vào thuyền, phân công nhau bơi. Họ bơi xa khỏi bờ để nhìn thấy hết tầm núi Franklin, rồi vòng trở lại cửa sông. Họ bơi như vậy được ba phần tư giờ; con thuyền đã gần đến cuối mũi đảo, và Pencroff đã định bơi vòng qua đó thì bỗng Harbert chồm lên và chỉ tay vào một chấm đen nào đó kêu to:
- Có cái gì đó ở trên bãi cát đằng kia kìa!
Mọi người nhìn về hướng đó.
- Đúng, ở đấy có cái gì thật. – chàng nhà báo nói.
- Chà! – Pencroff kêu to – Thế mà tôi lại biết đó là cái gì đấy.
- Cái gì vậy? – Nab hỏi.
- Một cái thùng phuy! Thùng phuy – và khả năng đó là những thùng phuy chứa đầy hàng! – chàng thuỷ thủ đáp.
Con thuyền cập vào bờ…
Pencroff đã không lầm. Trên bờ là hai cái thùng phuy bị cát vùi đến lưng chừng và buộc chặt vào một cái hòm to nổi trên mặt nước.
- Không nhẽ gần hòn đảo của chúng ta lại xảy ra một tai nạn đắm tàu? – Harbert hỏi.
- Có lẽ! – Gédéon Spilett trả lời.
- Trong hòm có cái gì nhỉ! – Pencroff sốt ruột kêu lên – Hòm đóng kín, lại chẳng có gì để cạy nắp ra!
Chàng thuỷ thủ đã định lấy hòn đá to đập vào thành hòm, nhưng viên kỹ sư ngăn lại, ông yêu cầu mọi người buộc các thứ tìm được vào thuyền, kéo về Lâu đài Đá hoa cương để mở ra và kiểm tra.
Tất cả những người khai khẩn thật là vui sướng, bởi trong hòm có đủ các loại dụng cụ: dao, rìu, bào, đục, dũa, cưa, khoan, đinh ốc, đinh vít; nhiều loại vũ khí khác nhau. Súng săn, súng cabin, kèm theo nhiều đạn dược; các loại khí cụ, máy lục phân, ống nhòm, dụng cụ vẽ, địa bàn, nhiệt kế Fahrenheit, phong vũ biểu, một chiếc máy ảnh kèm theo các dụng cụ, phụ tùng cần thiết như: ống kính, phim, giấy và hoá chất in phóng ảnh; nhiều quần áo vải và bít tất; đủ các loại dụng cụ nấu ăn: nồi, xoong, đồ dùng bằng nhôm, bình trà, dao. Và sách gồm nhiều cuốn: thánh kinh, tập bản đồ, từ điển thổ ngữ Polinesia, bách khoa toàn thư khoa học tự nhiên gồm sáu tập, giấy viết và sổ sách.
Sau khi thống kê xong, chàng nhà báo nói:
- Chủ của chiếc hòm này là người biết lo xa không chê vào đâu. Ở đây chẳng còn thiếu thứ gì. Quả thật cỏ thể nghĩ rằng ông ta đã đợi tai nạn đắm tàu và đã chuẩn bị trước!
Trong ngày, những người khai khẩn đã chuyển hết các thứ đồ họ bắt được vào Lâu đài Đá hoa cương và xếp cẩn thận trong phòng lớn. *
* * Sang ngày hôm sau, 30 tháng mười, những người ngụ cư chuẩn bị lên đường. Bây giờ, sau tất cả những gì mới xảy ra, việc nghiên cứu đảo không thể trì hoãn được.
Gédéon Spilett đề nghị khảo sát đảo để giải quyết dứt khoát vấn đề ở đây đã có xảy ra tai nạn đắm tàu không.
Ba giờ chiều, họ đến một vịnh hẹp, kín, là một bến cảng thiên nhiên tốt. Mọi người lên bờ, ăn trưa, rồi hết sức chăm chú nhìn qua ống nhòm quan sát vùng duyên hải cần nghiên cứu, bắt đầu từ bờ cát tới các dải đá ngầm, nhưng không phát hiện thấy dấu vết vụ tai nạn đắm tàu nào.
- Vậy thì kết luận thế nào đây? – chàng nhà báo hỏi.
- Kết luận là thế này – viên kỹ sư đáp – Khoảng ba tháng trước, có một con tàu lạ đã cố ý hoặc bị bắt buộc ghé vào đây…
- Thế nghĩa là, thưa ngài Cyrus, ngài cho rằng con tàu đã biến mất tăm? – nhà báo hỏi.
- Không, Spilett thân mến, nhưng anh hãy đồng ý rằng bây giờ nó không còn ở đây nữa.
- Nghĩa là, thưa ngài Cyrus, nếu cháu hiểu ngài đúng thì con tàu đã bơi đi mất rồi? – Harbert nói.
- Có lẽ!
- Nếu đã lỡ cơ hội rồi thì ta về thôi! – Pencroff nói, anh chàng đã bắt đầu nhớ Lâu đài Đá hoa cương.
Nhưng anh vừa đứng dậy thì thấy có tiếng con Top sủa vang. Con chó từ trong rừng phóng ra, răng ngoạm một miếng gì bẩn thỉu. Nab giật miếng ấy ra khỏi mõm con chó. Anh nhận thấy đó là một mảnh vải gai.
Con Top sủa đầy kích động, nó chạy, nhảy như mời ông chủ đi theo nó vào rừng.
- Biết đâu lời giải đáp về viên đạn chì ở đó cũng nên! – Pencroff thốt lên.
Và tất cả đều đi theo con chó, họ lách giữa những cây thông cao dựng thành bức tường ở cửa rừng. Cyrus Smith và các bạn của ông đều lên đạn súng, đề phòng mọi sự bất trắc.
Những người khai khẩn đi sâu vào rừng, nhưng họ đã thất vọng, họ không phát hiện thấy dấu chân người.
- Mày làm sao thể Top? – Cyrus Smith hỏi.
Con Top càng sủa càng to hơn và chạy nhảy loăng quăng bên cạnh một gốc cây thông khổng lồ cành lá xum suê.
- Tuyệt thật! Ra thế đấy! – Bỗng Pencroff reo lên.
Và chàng thuỷ thủ chỉ tay lên một mảnh vải lớn có màu trắng trên ngọn thông: con Top có lẽ đã tha về cho họ miếng vải rách, rơi dưới đất.
- Không nhẽ đó là…
- Phải rồi, đó là tất cả những gì còn lại của quả khí cầu bay, khi nó bị mắc trên cành cây.
Pencroff đã không lầm và lại kêu lớn lên: Hoan hô!
- Thế là lại có thứ vải tuyệt diệu nữa! Chúng ta sẽ có vải may quần áo mặc trong nhiều năm liên tiếp! Chúng ta sẽ may khăn tay và áo! Thế nào, thưa ngài Smith, ngài sẽ nói gì về hòn đảo có vải bọc trên cây?
Họ quyết định giữ gìn vỏ khí cầu để sau này nếu cần sẽ du hành trên không, hoặc dùng vài trăm vuông vải sợi tốt vào việc có ích, sau khi đã khử hết dầu trong vải. Dĩ nhiên mọi người đã chia sẻ niềm vui của Pencroff.
Nhưng cần phải hạ vỏ khí cầu từ trên cây xuống và cất giấu vào một nơi chắc chắn. Tiến hành việc đó không phải dễ dàng. Nab, Harbert và chàng thuỷ thủ đã leo lên ngọn thông và loay hoay mất hơn hai giờ mới hạ được xuống đất vỏ khí cầu cùng với van khí, lò xo, các bộ phận bằng đồng, lưới, các dây cáp.
Đêm xuống dần. Những người ngụ cư quyết định để thuyền lại, đi bộ trở về lâu đài. Khi các khách bộ hành của chúng ta về đến mũi Tìm thấy, nơi họ phát hiện ra thùng đồ quý báu, trời đã bắt đầu tối. Cả ở đây nữa họ cũng không tìm thấy dấu vết tàu đắm và đành phải đồng ý với kết luận của Cyrus Smith đã rút ra.
Từ mũi Tìm thấy đến Lâu đài Đá hoa cương còn bốn dặm nữa. Họ đi men theo bờ biển và về đến khúc sông Tạ ơn thì đúng nửa đêm. Khúc sông ở đây rộng tám mươi bộ, nhưng vượt qua không phải dễ dàng.
Trong lúc Pencroff và Nab đóng bè để qua sông thì Cyrus Smith và Gédéon Spilett ngồi đợi, cần gì thì giúp, còn Harbert đi dạo ngược dòng ngay lúc đó.
Bỗng chú chạy trở lại và chỉ xuống sông kêu lên:
- Xem kìa! Cái gì dưới đó vậy?
- Ê, thuyền kìa! – Pencroff kêu theo thói quen của một chàng thuỷ thủ.
Không một lời đáp lại! Con thuyền vẫn tiến gần, và khí nó còn cách họ chừng mười hai bước, chàng thuỷ thủ kinh ngạc thốt lên:
- Ơ, thuyền của ta đây mà! Nó bị đứt neo, nên nó mới trôi xuôi dòng. Thật đúng lúc ghê!
- Thuyền của ta ư? – kỹ sư lẩm bẩm.
Nab và chàng thuỷ thủ đã khéo léo dùng một cái sào dài móc chiếc thuyền vào bờ.
Viên kỹ sư nhảy xuống thuyền trước tiên, túm lấy sợi dây neo, sờ nắn và tin chắc là nó đã bị cứa vào vách đá đứt thật. Chàng nhà báo khẽ nói với ông:
- Tôi cho đây là một trường hợp…
- Rất lạ kì! – Cyrus Smith nói nốt ý của chàng nhà báo.
Dẫu sao thì sự ngẫu nhiên này cũng là một dịp may! Mọi người xuống thuyền. Họ không nghi ngờ rằng dây neo bị cắt đứt! Kì lạ hơn con thuyền đã xuất hiện đúng lúc và những người ngụ cư ở trên bờ có thể tóm được nó. Chứ chậm một lát nữa thôi là nó trôi hút ra biển mất rồi.
Sau mấy nhịp chèo những người khai khẩn đã trở về đến cửa sông Tạ ơn. Họ lôi thuyền lên bờ cát gần Hang ngụ cư, và tất cả đi về chỗ thang dây của Lâu đài Đá hoa cương.
Nhưng bỗng con Top bắt đầu sủa dữ dội, còn Nab thì mò mẫm tìm bậc thang thứ nhất và hét lên kinh hoàng.
Thang dây đã biến mất. *
* * Cyrus Smith im lặng dừng lại. Các bạn của ông sờ soạng tìm trong đêm tối bức tường đá hoa cương. Thoạt đầu họ tưởng gió đã thổi bay chiếc thang đi, sau họ lại cho rằng thang bị đứt, nên tìm mãi trên mặt đất. Nhưng chiếc thang dây đã không còn ở đó nữa.
- Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng trên đảo Lincoln đang xảy ra những việc kì quái! – Pencroff càu nhàu.
- Các bạn, – Cyrus Smith lên tiếng – chúng ta chỉ còn mỗi một cách. Đợi đến sáng và lúc đó thì tùy tình hình mà hành động. Còn tạm thời chúng ta hãy về Hang ngụ cư, nhịn đói bữa tối đi ngủ vậy.
Nói thế chứ làm sao mà chợp mắt được. Lâu đài Đá hoa cương đâu phải chỉ là chỗ ở, mà còn là kho chứa các tài sản của họ: vũ khí, dụng cụ, khí cụ, đạn dược…
Trời vừa hửng sáng, những người khai khẩn trang bị đủ lệ bộ trở lại Lâu đài Đá hoa cương. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là có ai đó đã lọt vào lâu đài của họ.
Đoạn thang trên bậu đá dẫn lên cửa ra vào vẫn còn nguyên tại chỗ, thế nhưng đoạn thang dưới đã bị ai đó kéo lên tận thềm cửa. Rõ ràng là những người xộc vào nhà đã tìm cách đề phòng mọi chuyện bất ngờ.
Harbert nảy ra ý tưởng buộc dây vào mũi tên bắn lên, sao cho mũi tên xuyên qua những thanh ngang phía dưới thềm cửa, rồi khẽ kéo sợi dây – thang rơi xuống đất, khi đó họ sẽ trèo lên Lâu đài Đá hoa cương.
Mũi tên bay trúng đích. Công việc đã tiến hành xong. Harbert chụp ngay lấy đầu dây, trong khoang cửa thoáng xuất hiện cánh tay của ai đó túm lấy chiếc thang và kéo nó trở lại Lâu đài Đá hoa cương.
- Ai thế nhỉ? – Nab hỏi.
- Đó là con khỉ đấy! Bầy khỉ đã chiếm nhà của chúng ta rồi. Chúng đã leo lên thang dây trong lúc chúng ta đi vắng.
Đúng lúc ấy, như thể khẳng định lời chàng thuỷ thủ là đúng, ba, bốn con vật bốn chân thò đầu ra cửa sổ, mếu môi, nhăn mặt như muốn chào các du khách theo kiểu của mình.
- Tôi đã biết mà, tất cả những chuyện này là trò giễu cợt của kẻ nào đó thôi, – Pencroff thét lên – Hãy cho một tên cợt nhả ấy trả giá cho tất cả bọn chúng.
Chàng thuỷ thủ nâng súng lên, ngắm nhanh và bóp cò. Bầy khỉ biến mất, chỉ còn một con bị thương rơi xuống bờ cát.
- Chẳng nhẽ không còn cách gì lên được trên đó hay sao? – Pencroff sốt ruột thốt lên.
- Có một cách. – viên kỹ sư nói, có lẽ ông đã nghĩ ra được điều gì. Một lát sau ông nói tiếp. – Ta thử lần theo đường thoát nước cũ để xuống Lâu đài Đá hoa cương xem.
Họ đi chưa đầy năm chục bước đã nghe tiếng con Top sủa vang gọi lại. Mọi người vội vã chạy về theo hướng bờ sông và thấy bầy khỉ hoảng hốt lao đến các cửa sổ. Năm sáu con đã trở thành mục tiêu cho họ nổ súng. Những con bị thương và chết rơi vào các phòng. Những con còn lại liều mạng nhảy xuống đất. Mấy phút qua, hình như trong Lâu đài Đá hoa cương không còn con khỉ nào nữa.
Vừa lúc ấy, họ thấy chiếc thang được tuồn từ phía sau ngưỡng cửa ló ra và rơi xuống.
- Tuyệt thật! – chàng thuỷ thủ kêu to, ngó sang Cyrus Smith.
- Đúng, tuyệt thật! Nhưng đâu phải là quá đáng? – kỹ sư lẩm bẩm và là người đầu tiên leo lên thang dây.
- Hãy cẩn thận đấy, ngài Cyrus! – Pencroff kêu – Có thể lũ khỉ còn ở trên ấy.
- Bây giờ ta sẽ thấy. – kỹ sư nói, không dừng lại.
Các bạn ông bắt đầu trèo theo và một phút sau họ đã lên đến ngưỡng cửa. Họ lục soát khắp nhà. Không thấy ai trong các phòng ở lẫn nhà kho.
- Thế việc ném cho ta chiếc thang dây thì giải thích sao nhỉ? – chàng thuỷ thủ nhận xét – Bậc quân tử nào đã thả nó xuống?
Vừa lúc ấy có tiếng kêu vang lên và một con khỉ lớn trốn ngoài hành lang lao vào phòng, Nab đuổi theo sau nó.
- À, mày là tên cướp! – Pencroff thét lên.
Anh vùng rìu định bổ vỡ sọ con vật, nhưng Cyrus Smith ngăn lại.
- Hãy thương hại con khỉ, Pencroff!
Mọi người lao đến chỗ con khỉ, nó chống cự một cách dữ tợn, nhưng nó đã bị đè xuống và người ta trói chặt nó lại.
- Ôi chao! – Pencroff thở hồng hộc – Thế chúng ta biết làm gì với nó bây giờ?
- Cho nó làm việc phục dịch! – Harbert trả lời.
Khi nói điều ấy chú bé không định đùa bỡn, chú biết một con khỉ thông minh có thể đem lại ích lợi như thế nào.
Thế là trên đảo lại xuất hiện thêm một người khai khẩn nữa, mà sau này nó đã đóng góp nhiều công lao cho mọi người. Theo đề nghị của chàng thuỷ thủ, và để kỷ niệm về một con khỉ mà đã có dịp nào đó trong đời anh đã biết đến, anh gọi nó là Jupiter, mọi người đồng ý đặt cho thành viên mới cái tên tắt là “Jup”.
http://truyen.fullf.net  
 

Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 4 - 5 - 6

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 11 - 12 - 13
» Xin lỗi, chỉ vì em là kẻ thứ ba (Chương 2a)
» Yêu và hận chương 10
» Hòn Đảo Bí Mật ~ Chương 14 - 15 - 16 -
» Yêu và hận chương 7
* Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc.* Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết.* Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.
-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Truyện 12 chòm sao :: Lớp học văn :: Gian truyện sưu tầm :: Hòn đảo bí mật!-